Đầu tư hệ thống xử lý nước thải đô thị, cách nào?
Theo các chuyên gia, nhu cầu đầu tư hệ thống thoát nước và xử lý nước thải của Việt Nam rất lớn, đòi hỏi đa dạng hóa nguồn vốn bằng cách huy động đầu tư tư nhân, chuyển từ phí bảo vệ môi trường sang thu giá dịch vụ.
Cần 8,3 tỷ USD đầu tư xử lý nước thải
Trình bày tham luận tại tọa đàm "Tham vấn các bên liên quan về khung pháp lý cho quản lý vận hành và đầu tư PPP trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải" diễn ra chiều 4/12, ThS Lương Ngọc Khánh, Phó trưởng phòng Quản lý cấp, thoát nước, Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng) nhấn mạnh, cần cấp thiết hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lý lĩnh vực cấp, thoát nước.

ThS Lương Ngọc Khánh, Phó trưởng phòng Quản lý cấp, thoát nước, Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng.
Theo ông Khánh, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải như Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước… cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai còn bất cập, đặc biệt là thu hút đầu tư và đảm bảo hiệu quả vận hành hệ thống thoát nước đô thị.
Ông Khánh cho biết, đến nay, cả nước có 23 đồ án quy hoạch chuyên ngành thoát nước đô thị được phê duyệt và 52/63 tỉnh, thành phố ban hành quyết định quản lý hoạt động thoát nước trước khi sáp nhập.
Ngân hàng Thế giới ước tính, nhu cầu đầu tư cho hệ thống thoát nước đô thị Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 lên tới 8,3 tỷ USD, đòi hỏi đa dạng hóa nguồn vốn bằng cách huy động đầu tư tư nhân, kêu gọi các nguồn vốn hợp pháp khác và chuyển từ phí bảo vệ môi trường sang thu giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải.
Một số địa phương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Bắc Ninh bước đầu áp dụng hình thức đối tác công – tư (PPP) để huy động nguồn lực xã hội. Nhưng đến nay, mới có 5 dự án PPP được triển khai theo hình thức hợp đồng BT.
Về dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải đô thị, theo Nghị định số 80/2014/NĐ-CP, chủ sở hữu hệ thống thoát nước có trách nhiệm lựa chọn đơn vị quản lý, vận hành.
Tại thời điểm khảo sát năm 2021 cho thấy, có 24 địa phương ký kết 27 hợp đồng quản lý, trong đó đặt hàng chiếm 48%, đấu thầu 37% và giao nhiệm vụ 15%.
Tuy nhiên, chưa có địa phương nào áp dụng hợp đồng dựa trên hiệu suất đối với khối lượng và chất lượng của dịch vụ thoát nước – mô hình đang được nhiều nước tiên tiến triển khai.
Ông Khánh cho hay, hình thức đấu thầu được ưu tiên vì đảm bảo tính cạnh tranh, công khai và minh bạch; song vẫn gặp khó khăn như: tổng mức đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải thấp, dự toán ngân sách theo niên độ chưa phù hợp với hợp đồng dài hạn.
"Điều này gây khó khăn trong chủ động về tài chính để xây dựng kế hoạch đầu tư trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực của đơn vị quản lý vận hành", ông Khánh nói.

Ông Phạm Quang Quỳnh, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Thoát nước Hải Phòng.
Là đơn vị quản lý, vận hành hệ thống thoát nước, ông Phạm Quang Quỳnh, Chủ tịch Công ty TNHH MTV thoát nước Hải Phòng cho biết, quá trình vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải gặp nhiều khó khăn, từ biến đổi khí hậu đến thực hiện nội dung điều khoản hợp đồng...
Ông Quỳnh đề xuất sớm ban hành Luật Cấp, Thoát nước để tạo khung pháp lý thống nhất cho quản lý, đầu tư và vận hành hạ tầng thoát nước, xử lý nước thải. Đồng thời, hoàn thiện các quy định liên quan giá dịch vụ, phân cấp quản lý, xử lý bùn thải; chuẩn hóa hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp điều kiện biến đổi khí hậu.
Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng các địa phương trong quản lý vận hành, đầu tư, khai thác hệ thống thoát nước đô thị và hệ thống tiêu thoát nước thủy lợi.
PPP - "chìa khoá" huy động vốn đầu tư
Tại tọa đàm, ông Abhinav Goyal, Trưởng bộ phận Dự án vốn và hạ tầng, PwC Việt Nam cho rằng, quá trình đô thị hóa nhanh đang đặt Việt Nam trước thách thức lớn về thoát nước và xử lý nước thải.
Hiện khoảng 18% lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý, trong khi mục tiêu đến năm 2030 đạt 40 - 60%. Nhu cầu vốn đầu tư ước tính lên tới 5,34 tỷ USD, trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp và nguồn ODA giảm dần.

Ông Abhinav Goyal, Trưởng bộ phận Dự án vốn và hạ tầng, PwC Việt Nam.
Theo ông Abhinav Goyal, mô hình đối tác công - tư (PPP) là giải pháp cần thiết để huy động nguồn lực tư nhân.
Các mô hình Nhà nước thanh toán như BLT (Xây dựng – thuê – chuyển giao) và BTL (Xây dựng – chuyển giao – thuê) cũng được đánh giá khả thi, vừa bảo đảm sở hữu công, vừa khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vận hành, nâng cao hiệu quả.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những nước có khả năng thu hồi vốn thấp qua giá dịch vụ như Ấn Độ, Indonesia đã thành công với mô hình Nhà nước thanh toán. Việt Nam được khuyến nghị đi theo hướng này, kết hợp cơ chế tài chính hỗn hợp gồm vốn ngân sách, vay ưu đãi, nợ thương mại và vốn chủ sở hữu tư nhân.
Đồng thời, các công cụ như hỗ trợ bù đắp thiếu hụt, trái phiếu xanh, tín chỉ carbon hay thu hồi giá trị đất được xem là chìa khóa để giảm rủi ro và tăng sức hấp dẫn cho nhà đầu tư.
Để nhân rộng PPP, ông Abhinav Goyal cho rằng, cần ban hành "sổ tay chuyên ngành" với hướng dẫn cụ thể về phân bổ rủi ro, cơ chế thanh toán, bộ KPI giám sát và lộ trình triển khai đến năm 2035.
Trình bày tham luận tại tọa đàm, ông Patrick S. Keil, Cố vấn pháp lý cao cấp của Công ty Luật TNHH DFDL Việt Nam chỉ ra điểm cải tiến quan trọng trong hai mẫu hợp đồng mới cho ngành thoát nước và xử lý nước thải.

Nhiều chuyên gia nêu ý kiến tại phiên hỏi đáp của tọa đàm.
Theo ông Patrick S. Keil, việc chuẩn hóa hợp đồng là bước đi cần thiết để khắc phục bất cập pháp lý hiện nay, đồng thời tạo sự minh bạch và niềm tin cho nhà đầu tư.
Các điểm cải tiến tập trung làm rõ phạm vi dịch vụ, bổ sung cơ chế giám sát và thanh toán gắn với hiệu suất, đồng thời quy định chi tiết về trách nhiệm và phân bổ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, dự thảo hợp đồng PPP theo mô hình BLT/BTL cũng được thiết kế để tăng tính khả thi thương mại, với công thức thanh toán minh bạch, khung định giá dịch vụ rõ ràng và cơ chế thanh toán linh hoạt.
Những cải tiến này được kỳ vọng tạo nền tảng pháp lý ổn định, giảm rủi ro trong quá trình đàm phán, nâng cao sức hấp dẫn đối với khu vực tư nhân.
Qua đó, mô hình PPP được triển khai hiệu quả hơn, góp phần giải quyết nhu cầu vốn lớn và thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải tại Việt Nam.
