Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn (sửa đổi): “Phải trở thành công cụ kiến tạo phát triển”
Kinh tế đô thị đóng góp khoảng 70% GDP cả nước, điều này đòi hỏi quy hoạch phải thực sự là công cụ phát triển. Dự thảo Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn lần này đưa vào nhiều đổi mới, đồng bộ chính quyền hai cấp, tinh giản quy trình.
Chia sẻ với phóng viên Báo Xây dựng, PGS.TS Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng chia sẻ góc nhìn đa chiều và nhấn mạnh nhu cầu cấp bách phải đổi mới tư duy quy hoạch.
Trao quyền đi đôi với giám sát
Thưa ông, trong lần sửa đổi này, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn nhấn mạnh đến việc đồng bộ với mô hình chính quyền hai cấp và tinh giản quy trình lập quy hoạch. Ông đánh giá thế nào về tác động của thay đổi này, đối với hiệu quả quản lý đô thị và nông thôn?

PGS.TS Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng. Ảnh: Kim Thoa.
PGS.TS Lưu Đức Hải: Việc điều chỉnh lần này theo tôi là cần thiết, bởi nó tiệm cận với thông lệ quốc tế. Trên thế giới, quy hoạch đô thị thường được coi là một loại hình quy hoạch quốc gia. Đô thị là không gian cư trú của phần lớn dân cư, nơi tập trung lao động phi nông nghiệp và đồng bộ hạ tầng, đóng góp tới 70% GDP.
Ở Việt Nam, khi triển khai mô hình chính quyền hai cấp, chúng ta buộc phải kế thừa hệ thống quy hoạch đã có. Nếu xóa bỏ hoặc làm mới hoàn toàn sẽ dẫn tới tình trạng "nông thôn hóa thành thị", lãng phí nguồn lực đã đầu tư.
Tôi cho rằng, sửa đổi lần này giúp duy trì sự đồng bộ, tránh gián đoạn hạ tầng, và tạo nền tảng để các địa phương vận hành hiệu quả trong mô hình hai cấp.
Một điểm mới quan trọng là việc bãi bỏ nhiều quy định trùng lặp, đồng thời phân cấp mạnh cho cấp xã. Theo ông, điều này thuận lợi đến đâu và có tiềm ẩn rủi ro gì?
PGS.TS Lưu Đức Hải: Phân cấp là xu hướng tất yếu, gắn với cải cách hành chính và tăng tính chủ động cho cơ sở. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở năng lực thực thi. Nếu chỉ trao quyền mà thiếu chuẩn mực giám sát, thiếu nhân sự chất lượng, rất dễ dẫn đến bất cập.
Ở những nơi đủ nguồn lực, phân cấp sẽ phát huy hiệu quả; ngược lại, có thể phát sinh tình trạng buông lỏng. Vì vậy, Luật phải song hành với đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và cơ chế giám sát rõ ràng. Phân cấp mạnh nhưng phải có "hàng rào" để bảo đảm an toàn cho hệ thống.
Dự thảo luật lần này đặt mục tiêu tăng tính thống nhất giữa các loại quy hoạch. Theo ông, cơ chế nào là hữu hiệu để tránh chồng chéo, hình thức, vốn là điểm yếu trong giai đoạn trước?
PGS.TS Lưu Đức Hải: Điểm nghẽn lớn nhiều năm qua là sự chồng chéo. Nguyên nhân là chúng ta dùng quy hoạch chiến lược để áp cho các dự án cụ thể. Điều này sai về bản chất. Luật sửa đổi cần quy định rõ: quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội chỉ mang tính định hướng; dự án cụ thể phải căn cứ vào quy hoạch không gian đô thị, nông thôn.
Đồng thời, cần phân định rõ quy hoạch vùng kinh tế - xã hội với quy hoạch vùng đô thị lớn. Nếu không, Hà Nội, TP.HCM hay các vùng liên đô thị sẽ tiếp tục gặp vướng mắc. Một cơ chế giám sát hữu hiệu phải dựa trên phân định chức năng rành mạch, không thể để "một văn bản chồng lên nhiều văn bản".
Giải quyết dứt điểm tình trạng quy hoạch treo
Một trong những bức xúc lớn là thời gian lập và phê duyệt quy hoạch kéo dài, khiến cơ hội đầu tư bị bỏ lỡ. Theo ông, làm thế nào để vừa nhanh gọn vừa đảm bảo chất lượng, tránh "quy hoạch treo"?
Rút ngắn quy trình là yêu cầu đúng, nhưng "nhanh" không đồng nghĩa với làm ẩu. Kinh nghiệm cho thấy, các quy hoạch đã phê duyệt cần được kế thừa, chỉ điều chỉnh dần khi chưa phù hợp. Không thể liên tục "làm lại từ đầu" vừa tốn kém vừa kéo dài.
Tôi cho rằng, giải pháp là ứng dụng mạnh công nghệ số, cơ sở dữ liệu dùng chung để rút ngắn khâu thẩm định, đồng thời quy định rõ trách nhiệm từng cấp, từng cơ quan. Nếu có hệ thống dữ liệu minh bạch, vừa tiết kiệm thời gian, vừa nâng cao chất lượng, hạn chế tối đa tình trạng quy hoạch treo.

Theo PGS.TS Lưu Đức Hải, kinh tế đô thị đóng góp khoảng 70% GDP cả nước, việc sửa Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn là vô cùng quan trọng. Ảnh: Kim Thoa.
Thưa ông, các đô thị Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức: biến đổi khí hậu, quá tải hạ tầng, bảo tồn di sản. Ông đánh giá thế nào về khả năng của Luật sửa đổi trong việc biến quy hoạch thành "công cụ kiến tạo phát triển" như tinh thần Nghị quyết 06-NQ/TW?
PGS.TS Lưu Đức Hải: Tôi cho rằng, luật lần này đã tiến một bước đáng kể, song vẫn chưa đủ để coi là toàn diện. Về lâu dài, chúng ta phải khu biệt hóa pháp luật rõ ràng hơn. Như quốc tế, người ta có cả Luật Thoát nước đô thị, Luật Chiếu sáng đô thị, Luật Quản lý phát triển đô thị… Điều này giúp quản lý cụ thể và minh bạch.
Ở Việt Nam, nếu cứ gộp hết vào một luật sẽ cồng kềnh, khó vận hành. Tôi kiến nghị ngành Xây dựng cần xây dựng lộ trình cho Quốc hội: năm nào phải ban hành luật gì, năm nào sửa đổi, để hệ thống pháp luật đô thị được hoàn chỉnh, đồng bộ. Chỉ khi có khuôn khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch, quy hoạch mới thực sự trở thành công cụ kiến tạo phát triển.
Nhìn lại, ông kỳ vọng gì ở lần sửa đổi Luật này?
PGS.TS Lưu Đức Hải: Kỳ vọng lớn nhất của tôi là luật sẽ giải quyết được tình trạng chồng chéo, đồng thời bảo đảm sự kế thừa các quy hoạch đã có. Hệ thống đô thị Việt Nam hiện chiếm phần lớn GDP, nên luật phải bảo đảm quy hoạch đô thị, nông thôn được coi như quy hoạch quốc gia, phản ánh đúng vai trò động lực phát triển.
Nếu làm tốt, luật lần này sẽ tạo nền tảng để các đô thị Việt Nam vừa phát triển bền vững, vừa hội nhập với thông lệ quốc tế, đúng tinh thần Nghị quyết 06-NQ/TW.
Xin cảm ơn ông!