Thị trường

Thập kỷ bứt phá xuất nhập khẩu: Tín hiệu mạnh và nỗi lo năm 2026

28/12/2025, 16:26

Dự báo, triển vọng xuất khẩu 2026 vẫn tích cực nhờ sự phục hồi của Mỹ, EU, Nhật Bản và xu hướng nới lỏng tiền tệ. Nhưng thách thức lớn nhất không còn là tốc độ tăng trưởng, mà là khả năng nâng giá trị gia tăng và mức độ tự chủ của nền kinh tế.

Theo báo cáo từ Cục Hải quan, Bộ Tài chính, tính đến thời điểm hiện tại, tổng trị giá xuất nhập khẩu dự kiến cán mốc 900 tỷ USD vào khoảng thời gian từ ngày 22-26/12/2025.

Cả năm 2025, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam ước tính đạt 920 tỷ USD, tăng 16,9% (tương ứng tăng 133,07 tỷ USD) so với năm trước. 

Trong đó, trị giá nhập khẩu năm 2025 ước tính đạt 449,41 tỷ USD, tăng 18% (tương ứng tăng 68,42 tỷ USD) và trị giá xuất khẩu ước tính đạt 470,59 tỷ USD, tăng 15,9% (tương ứng tăng 64,65 tỷ USD).

Thập kỷ bứt phá xuất nhập khẩu: Tín hiệu mạnh và nỗi lo năm 2026- Ảnh 1.

Xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong năm 2025 (Ảnh minh họa).

Có 8 nhóm hàng xuất khẩu đạt trị giá trên 10 tỷ USD

Ước tính có 36/45 nhóm hàng có trị giá xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Trong đó có 8 nhóm hàng đạt trị giá trên 10 tỷ USD với tổng trị giá ước tính đạt 319 tỷ USD, chiếm 68% trị giá xuất khẩu của cả nước.

Xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong năm 2025, ước đạt khoảng 400 tỷ USD, tăng 16,6% (tương đương 57,04 tỷ USD) so với năm 2024 và chiếm khoảng 85,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Nhóm hàng nông, thủy sản dự kiến mang về 44,46 tỷ USD, tăng 14,1% (tăng 5,51 tỷ USD), đóng góp khoảng 9,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Trong khi đó, nhóm nhiên liệu - khoáng sản chỉ chiếm khoảng 1% trong cơ cấu xuất khẩu năm 2025.

Thập kỷ bứt phá xuất nhập khẩu: Tín hiệu mạnh và nỗi lo năm 2026- Ảnh 2.

Biểu đồ trị giá xuất - nhập khẩu hơn một thập kỷ.

Ở chiều ngược lại, nhập khẩu hàng hóa năm 2025 được dự báo có tới 49/53 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đáng chú ý, 8 nhóm hàng vượt mốc 10 tỷ USD với tổng trị giá ước đạt 281 tỷ USD, chiếm khoảng 63% tổng nhập khẩu cả nước.

Cơ cấu nhập khẩu tiếp tục tập trung vào các mặt hàng phục vụ sản xuất như máy vi tính, điện thoại và linh kiện; máy móc, thiết bị; nguyên phụ liệu dệt may - da giày; sắt thép và kim loại. Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng tăng, đặc biệt là mặt hàng ô tô.

Tổng kim ngạch thương mại với Trung Quốc và Hoa Kỳ đạt 422 tỷ USD

Về thị trường, hiện Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 34 thị trường xuất khẩu và 24 thị trường nhập khẩu đạt trên 1 tỷ USD.

Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm qua, với kim ngạch hai chiều ước đạt 252 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước. Hoa Kỳ đứng thứ hai với tổng trị giá thương mại khoảng 170 tỷ USD, cũng tăng 26,5%.

Đáng chú ý, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Hoa Kỳ và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của nước này trong khu vực ASEAN.

Tổng kim ngạch thương mại với Trung Quốc và Hoa Kỳ đạt 422 tỷ USD, chiếm khoảng 46% tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước. Hai thị trường này cũng đóng góp tới 82 tỷ USD, tương đương 62% mức tăng trưởng thương mại của Việt Nam trong năm qua.

Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2025, đạt mức kỷ lục 151,85 tỷ USD, chiếm 32% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng tới 32 tỷ USD so với năm trước.

Đứng sau Hoa Kỳ là các thị trường chủ lực khác: Trung Quốc đạt 69 tỷ USD; EU (27 nước) đạt 56 tỷ USD; ASEAN đạt 38 tỷ USD; Hàn Quốc 29 tỷ USD; Nhật Bản 27 tỷ USD; Hồng Kông 17 tỷ USD; và Ấn Độ 10 tỷ USD.

Thập kỷ bứt phá xuất nhập khẩu: Tín hiệu mạnh và nỗi lo năm 2026- Ảnh 3.

10 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2024 và ước năm 2025.

Cần chuyển trọng tâm từ "tăng kim ngạch" sang "tăng giá trị"

Bước sang năm 2026, theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), kinh tế thế giới đang phục hồi sau nhiều biến động hậu Covid-19, nhưng các chính sách thuế quan mới từ Mỹ - thị trường tiêu dùng lớn nhất sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh. Việt Nam, với mức độ phụ thuộc lớn vào thị trường này, sẽ thấy rõ tác động ở các ngành chủ lực như dệt may, da giày, thủy sản và điện tử.

Ông Hải cho rằng, chìa khóa của doanh nghiệp vẫn là chất lượng. Những ngành xuất khẩu truyền thống muốn giữ thị trường phải bảo đảm tiêu chuẩn bền vững, tạo được độ tin cậy lâu dài. Sang năm 2026, doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ kế hoạch thị trường, dự báo đơn hàng và xây dựng kịch bản ứng phó để giữ vững đà tăng trưởng.

Tuy nhiên, chỉ có chất lượng là chưa đủ. Doanh nghiệp Việt còn thiếu một điểm tựa quan trọng là thương hiệu. Nhiều đơn vị sản xuất tốt nhưng chưa đầu tư tương xứng cho xây dựng giá trị nhận diện - yếu tố quyết định để nâng vị thế trên thị trường toàn cầu.

Một yêu cầu ngày càng cấp bách khác là chuyển đổi xanh. Từ 2026, EU áp dụng cơ chế thuế carbon biên giới (CBAM) cho thép, nhôm và có thể mở rộng sang nhiều mặt hàng khác. Điều này buộc các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng như thép, xi măng, vật liệu xây dựng phải sớm nâng chuẩn công nghệ và giảm phát thải nếu muốn tiếp tục tham gia chuỗi cung ứng quốc tế.

Ở góc nhìn kinh tế vĩ mô, TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam dự báo, triển vọng xuất khẩu 2026 vẫn tích cực nhờ sự phục hồi của Mỹ, EU, Nhật Bản và xu hướng nới lỏng tiền tệ toàn cầu. Nhưng thách thức lớn nhất không còn là tốc độ tăng trưởng, mà là khả năng nâng giá trị gia tăng và mức độ tự chủ của nền kinh tế.

Ông nhấn mạnh Việt Nam cần chuyển trọng tâm từ "tăng kim ngạch" sang "tăng giá trị", giảm phụ thuộc nhập khẩu bằng việc nâng tỷ lệ nội địa hóa, tăng vai trò doanh nghiệp trong nước trong chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ để thu hẹp mức nhập siêu 9-14 tỷ USD mỗi năm.

Nếu kiên trì theo đuổi bốn ưu tiên - đa dạng hóa thị trường và tận dụng FTA, tăng giá trị nội địa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và mở rộng xuất khẩu dịch vụ thì Việt Nam có thể giữ được đà tăng trưởng xuất khẩu hai con số trong năm 2026.