Thích ứng biến đổi khí hậu gắn với chính quyền 2 cấp
Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) vừa phối hợp tổ chức "Hội thảo tập huấn tăng cường năng lực quản lý thích ứng biến đổi khí hậu".
Xây dựng chính sách ứng phó biến đổi khí hậu
Chủ trì hội thảo, T.S Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH), Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết sự kiện diễn ra nhằm hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về thích ứng với BĐKH sau sáp nhập chính quyền hai cấp.

T.S Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH) phát biểu tại hội thảo.
Theo bà Liên, trước thực trạng BĐKH tiếp tục diễn ra ngày càng cực đoan và khó lường gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế và an toàn của người dân. Chính phủ đã ban hành và tích cực triển khai nhiều chính sách quan trọng, trong đó bao gồm Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (NAP) và Hệ thống giám sát và đánh giá các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia (M&E).
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành các thông tư hướng dẫn về quản lý nhà nước về BĐKH. Nhiều chương trình, dự án trọng điểm được triển khai ở cấp trung ương và địa phương.

T.S Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH) chủ trì hội thảo.
"Với mục tiêu triển khai công tác ứng phó với BĐKH đồng bộ trên toàn quốc, Cục BĐKH đã và đang nỗ lực thúc đẩy việc triển khai kế hoạch NAP và Hệ thống M&E trực tuyến, qua đó góp phần phục vụ tốt hơn cho công tác hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực, cũng như tăng cường vị thế và trách nhiệm của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về BĐKH", Bà Liên chia sẻ.
Bên cạnh những kết quả làm được, hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu cũng còn những hạn chế. Theo bà Liên, hiện đang có nhu cầu lớn về đào tạo chuyên môn cho công tác ứng phó và quản lý nhà nước về thích ứng BĐKH tại các bộ ngành và địa phương. Đặc biệt, sau sáp nhập, một số bộ ngành, cán bộ, công chức và bộ máy thực hiện công tác BĐKH tại các cấp có nhiều thay đổi về cơ cấu, chức năng, nhiều vụ, nhiều cán bộ mới được phân công thực hiện nhiệm vụ.
Hoàn thiện quản lý cơ sở dữ liệu
Trong khi đó, ông Trần Toàn Thắng Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính, cũng cho biết hiện nay hoạt động thương mại cũng tác động khá lớn đến hoạt động thích ứng biến đổi khí hậu.
Theo ông Thắng, thương mại cản trở, kích thích với hoạt động thích ứng, khả năng tiếp cận công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp như giống, biện pháp, công nghệ gắn với máy móc của thích ứng, anh hưởng trực tiếp. Trong khi đó chính sách thương mại tác động đến sinh kế.

Ban tổ chức và khách mời Hội thảo tập huấn tăng cường năng lực quản lý thích ứng biến đổi khí hậu chụp ảnh lưu niệm.
Hoạt động thương mại tác động đến ứng phó biến đổi khí hậu là hàng rào phi thuế quan, là những cam kết không thuộc thương mại, nó cam kết những vấn đề là sản xuất hàng hóa để buôn bán như thế nào, nói cách khách như môi trường, lao động, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ. Trong lĩnh vực thương mại nông nghiệp là câu chuyện về kiểm dịch động thực vật chặt; thủ tục hành chính giải quyết chậm; chậm ứng dụng công nghệ; công nghệ sau thu hoạch...
Do đó, ông Thắng cho rằng, cần dần gỡ bỏ các rào cản thương mại đối với ứng phó biến đổi khí hậu theo thông lệ quốc tế; tiếp cận chọn bỏ hay chọn cho; phối hợp liên ngành; tích hợp Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH (NAP) trong các chính sách thương mại.
Theo GS.TS Trần Thục, chuyên gia biến đổi khí hậu cũng cho rằng, mục đích của việc hành động NAP là nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương do tác động của BĐKH thông qua việc nâng cao năng lực và khả năng phục hồi; tạo điều kiện thuận lợi cho việc lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chặt chẽ trong các lĩnh vực liên quan và ở các cấp độ khác nhau. Nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, bảo đảm sinh kế bền vững; giảm nhẹ rủi ro thiên tai, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng...
Thạc sĩ Nguyễn Văn Tuệ đề xuất các giải pháp xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảm bảo cung cấp, chia sẻ thông tin cập nhật về tiến độ, kết quả thực hiện các hoạt động thích ứng với BĐKH...
Thống kế ngân sách hỗ trợ BĐKH cho 29 tỉnh, thành phố tăng từ khoảng 15.000 tỷ đồng năm 2016 lên gần 24.000 tỷ đồng vào 2020. Từ 2013 đến 2020 tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường đạt gần 129,8.000 tỷ đồng chi thường xuyên Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Bảo Vệ Môi trường giai đoạn 2011 - 2020 luôn bảo đảm đạt tỷ lệ khoảng 1% trong tổng chi Ngân sách nhà nước và tăng dần hằng năm.
Tổng số vốn đã phê duyệt cho 21 chương trình mục tiêu là khoảng 1,14 triệu tỷ đồng, (tương đương 51 tỷ USD) cho giai đoạn 2016 - 2020 tỷ đồng. Một số kênh đa phương hỗ trợ cho các hành động thích ứng với BĐKH được tiếp cận, bao gồm: Quỹ Môi trường toàn cầu (Global Environment Fund - GEF).
Từ năm 1998 Việt Nam nhận được 21 dự án quốc gia (101 triệu USD) và 24 dự án vùng (185 triệu USD) từ GEF cho các dự án về môi trường và BĐKH; Quỹ Khí hậu xanh (Green Climate Fund - GCF): Việt Nam đã nhận được tài trợ 6 dự án bao gồm cả thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ GCF với tổng kinh phí hỗ trợ là 210 triệu USD; Quỹ Thích ứng (Adaptation Fund) với tổng cam kết tài trợ cho các quốc gia là 1.525,43 triệu USD. Huy động 18,244 triệu USD và đang được tiếp tục xem xét tài trợ 71,467 triệu USD.