Sách

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản

09/10/2025, 06:07

NSND Lê Tiến Thọ và PGS.TS Bùi Hoài Sơn đều cho rằng, cần có hướng dẫn, phụ lục cụ thể với từng nội dung mục tiêu thì Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 mới dễ đi vào đời sống.

Bước tiến mang tính lịch sử trong tư duy hoạch định chính sách văn hóa

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) vừa ban hành quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035, giai đoạn I (từ năm 2025 - 2030).

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản- Ảnh 1.

Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 được thực hiện với nguồn vốn tối thiểu là 122.250 tỷ đồng.

Chương trình gồm 9 nhóm mục tiêu cụ thể và 10 nội dung thành phần đến năm 2030.

Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn I tối thiểu là 122.250 tỷ đồng.

Trong đó vốn ngân sách Trung ương tối thiểu 77.000 tỷ đồng (chiếm 63%), vốn ngân sách địa phương là 30.250 tỷ đồng (chiếm 24,6%) và nguồn vốn khác dự kiến 15.000 tỷ đồng (chiếm 12,4%).

Trong quá trình điều hành, Bộ VH,TT&DL tham mưu Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách Trung ương để ưu tiên hỗ trợ thêm cho chương trình phù hợp với điều kiện thực tế và có giải pháp huy động hợp lý mọi nguồn vốn hợp pháp để thực hiện.

Chia sẻ với Báo Xây dựng, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đánh giá, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025–2030 là bước tiến có tính lịch sử trong tư duy hoạch định chính sách văn hóa của Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên chúng ta có một chương trình quốc gia được đầu tư quy mô lớn, bài bản, dài hạn, đa ngành và liên vùng, với tổng nguồn vốn hơn 122.250 tỷ đồng. Điều này thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội như tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết 33-NQ/TW.

Ông Sơn cũng đánh giá cao tầm nhìn rõ ràng của chương trình là: Xây dựng và phát triển con người, môi trường, thiết chế, sản phẩm và sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới – thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và đổi mới sáng tạo.

"Mục tiêu này không chỉ nhằm bảo tồn di sản hay nâng cấp cơ sở vật chất, mà quan trọng hơn là đưa văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh, động lực phát triển bền vững của đất nước.

Tư duy thiết kế của chương trình thể hiện sự chuyển từ 'đầu tư dàn trải' sang 'đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả lan tỏa', với việc xác định rõ 9 nhóm mục tiêu ưu tiên – từ phát triển con người, gia đình, cộng đồng văn hóa, đến công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế", ông Sơn đánh giá.

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản- Ảnh 2.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.

Trong 9 nhóm mục tiêu của chương trình, ông Bùi Hoài Sơn đặc biệt kỳ vọng vào nhóm mục tiêu về phát triển con người và môi trường văn hóa.

"Mọi chính sách, mọi nguồn lực, dù lớn đến đâu, đều phải quay về phục vụ con người – chủ thể sáng tạo và thụ hưởng văn hóa.

Nếu chúng ta làm tốt việc bồi đắp nhân cách, tri thức, năng lực sáng tạo và tinh thần yêu nước của người Việt trong môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, thì những nhóm mục tiêu khác – từ di sản đến công nghiệp văn hóa đều sẽ có nền tảng vững chắc để phát triển.

Tôi cũng đánh giá cao các nội dung hướng đến công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số và phát huy sức mạnh mềm quốc gia.

Đây là hướng đi rất mới, thể hiện sự chủ động của Việt Nam trong việc bắt nhịp với xu thế toàn cầu, đưa văn hóa từ chỗ 'được đầu tư' sang 'tự tạo ra giá trị và nguồn thu'.

Nói cách khác, chương trình này không chỉ là đầu tư cho văn hóa, mà còn là đầu tư cho tương lai phát triển bền vững của đất nước, để 'văn hóa soi đường cho quốc dân đi', như lời Bác Hồ căn dặn", Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nói.

Đừng để chương trình chỉ nằm trên giấy

NSND Lê Tiến Thọ - nguyên Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL, nguyên Chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam cũng đánh giá cao chương trình Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030.

Theo NSND Lê Tiến Thọ, điểm mạnh trong chương trình là đã đặt ra nhiều hoạt động lớn với 9 nhóm mục tiêu phát triển văn hóa và 10 nội dung thành phần.

Tuy nhiên, với những hoạt động lớn như vậy, điều ông lo ngại nhất là quỹ thời gian chỉ còn khoảng 4 năm, 3 tháng để thực hiện.

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản- Ảnh 3.

NSND Lê Tiến Thọ - nguyên Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL. (Ảnh: Huyền Chi).

Đi sâu phân tích từng mục tiêu, nội dung, NSND Lê Tiến Thọ cho rằng các nội dung nhiệm vụ cụ thể vẫn ở mức chung chung nên khó đi vào đời sống.

"Trong nội dung thành phần số 5 là 'Thúc đẩy phát triển văn học, nghệ thuật', có nội dung nhiệm vụ cụ thể là Hỗ trợ cơ sở vật chất hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển văn học, nghệ thuật. Song, nội dung này chưa thể hiện tiêu chí cụ thể như: Tiêu chí nào sẽ được đầu tư? Đầu tư ở mức bao nhiêu? Có bao nhiêu cơ sở được đầu tư?

Nội dung Đầu tư có trọng điểm các công trình, tác phẩm văn học, nghệ thuật đỉnh cao của Việt Nam cũng chưa rõ là: Sẽ đầu tư ở công trình nào, trung tâm hay địa phương nào? Bởi để đầu tư, cần rất nhiều khâu từ lên ý tưởng, giải phóng mặt bằng... Chỉ còn hơn 4 năm nữa để thực hiện các bước như khảo sát, xây dựng, vẽ đề án, đầu tư... tôi nghĩ để nội dung này đi vào thực tế sẽ gặp không ít khó khăn.

Hiện nay, công tác đào tạo đội ngũ văn học nghệ thuật vẫn còn hạn chế. Nhưng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030 vẫn chưa nói rõ sẽ đầu tư ở lĩnh vực nào, đầu tư ra sao", NSND Lê Tiến Thọ phân tích.

Ở nội dung thành phần số 7 là "Phát triển nguồn nhân lực văn hóa", NSND Lê Tiến Thọ cho rằng, các nội dung nhiệm vụ cụ thể cần được nêu rõ như: Số lượng đào tạo nguồn nhân lực là bao nhiêu? Đào tạo như thế nào để các tài năng vượt trội có cơ hội được cống hiến, rèn luyện phát triển? Bộ sẽ giao cho trường nào thực hiện nhiệm vụ đào tạo? Lộ trình đào tạo và giáo trình được xây dựng cụ thể như thế nào?

Trong Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035, Bộ VH,TT&DL cũng đề cập đến mục tiêu phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP của cả nước. NSND Lê Tiến Thọ gợi ý mục tiêu này cũng cần có các nội dung, phân công cụ thể như: Điện ảnh đóng góp bao nhiêu phần trăm, nghệ thuật biểu diễn bao nhiêu phần trăm... Vì sao họ phải đóng góp như vậy?

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản- Ảnh 4.

NSND Lê Tiến Thọ và PGS.TS Bùi Hoài Sơn đều cho rằng, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025–2035 cần có những chỉ số định lượng rõ ràng để có thể đo lường, giám sát và đánh giá hiệu quả thực thi.

Để chương trình hoàn thiện hơn, NSND Lê Tiến Thọ đưa ra giải pháp là Bộ VH,TT&DL nên có những phụ lục, hướng dẫn cụ thể hơn với từng mục tiêu và nội dung.

Theo ông Thọ, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030 cần được nêu cụ thể hơn bằng các con số, định lượng rõ ràng. Thay vì chỉ dừng ở các mục tiêu chung chung như: "nâng cao", "phát triển", "bảo tồn", "thúc đẩy"...

"Mỗi nội dung phải có đề án riêng, cụ thể từng đầu việc như: triển khai thế nào, các con số định lượng ra sao, đơn vị nào chịu trách nhiệm triển khai, trong bao lâu phải hoàn thành mục tiêu và đơn vị nào chịu trách nhiệm giám sát. Từ nay đến 2030, chúng ta có rất nhiều mục tiêu lớn, vậy nếu không hoàn thành đúng thời gian đề ra, lãnh đạo đơn vị thực hiện sẽ phải chịu trách nhiệm ra sao?

Để Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030 dễ đi vào thực tế, tôi nghĩ Chính phủ cần vào cuộc. Cạnh đó, Quốc hội, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội hoàn toàn có thể giám sát chặt chẽ việc triển khai chương trình này", NSND Lê Tiến Thọ nói.

Nếu các mục tiêu chỉ được đề cập chung chung, chương trình rất dễ trở thành khẩu hiệu mà khó đi vào đời sống. Bài học lịch sử đã cho thấy nhiều đề án được xây dựng rất mạnh, nhưng các đề án vẫn chỉ nằm trên giấy mà không đi vào thực tế.
Nguyên Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL Lê Tiến Thọ

Đồng quan điểm, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng góp ý của ông Thọ là "rất xác đáng và thực tiễn".

Bởi, khi các mục tiêu còn chung chung, không cụ thể hóa bằng các tiêu chí hay con số, việc triển khai xuống địa phương sẽ dễ rơi vào tình trạng "mạnh ai nấy làm" hoặc chỉ dừng lại ở hình thức.

Song, ông Sơn cũng nhấn mạnh thêm: Việc cụ thể hóa các mục tiêu không chỉ là công việc của Bộ VH,TT&DL, mà cần có sự phối hợp của các bộ, ngành và địa phương, vì văn hóa là lĩnh vực liên ngành, liên vùng.

"Phụ lục hướng dẫn nếu được ban hành, nên vừa có tính thống nhất quốc gia, vừa có tính linh hoạt để mỗi địa phương vận dụng phù hợp với đặc thù văn hóa, điều kiện kinh tế – xã hội của mình.

Quá trình cụ thể hóa cần được thực hiện một cách khoa học, có lộ trình, có sự phối hợp và giám sát chặt chẽ, để mỗi đồng vốn đầu tư cho văn hóa đều mang lại giá trị tinh thần, xã hội và kinh tế thiết thực cho người dân.

Khi đó, những con số định lượng sẽ không làm cứng nhắc chính sách, mà trở thành công cụ thúc đẩy sáng tạo, hiệu quả và trách nhiệm trong triển khai", PGS.TS Bùi Hoài Sơn nói.

Trong bối cảnh còn hơn 4 năm cho giai đoạn I (2025–2030), Bộ VH,TT&DL hoàn toàn có thể và nên xây dựng các phụ lục hướng dẫn kèm theo.
Phụ lục cụ thể hóa các nhóm mục tiêu, nhiệm vụ bằng hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn và định mức như: Bao nhiêu thiết chế văn hóa được nâng cấp, bao nhiêu di sản được số hóa, bao nhiêu người được thụ hưởng dịch vụ văn hóa, tỷ lệ đóng góp của công nghiệp văn hóa vào GDP là bao nhiêu...
Có như vậy, chương trình mới thực sự đi vào đời sống, phản ánh đúng tinh thần “đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững”.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội

Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội sẽ giám sát chương trình ở 3 cấp độ

Về công tác giám sát quá trình triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, vai trò của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội không chỉ là giám sát thông thường.

Vai trò của Ủy ban là giám sát mang tính chiến lược – bảo đảm cho việc thực hiện chương trình đúng định hướng, hiệu quả, công khai và minh bạch, đúng tinh thần "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội".

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi không dừng ở khẩu hiệu, văn bản- Ảnh 5.

Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025–2035 được thực hiện trên phạm vi cả nước, gồm toàn bộ các thôn, bản, ấp, tổ dân phố và tương đương, các xã, phường, đặc khu, các tỉnh, thành phố thuộc Trung ương và tại một số quốc gia có mối quan hệ, tương tác văn hóa lâu dài với Việt Nam, có đông đảo người Việt Nam sinh sống, lao động, học tập.

Theo ông Sơn, với quy mô đầu tư hơn 122.250 tỷ đồng, trải rộng trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp độ và hàng chục nghìn công trình, dự án thành phần, việc giám sát phải được tiến hành bài bản, liên tục và có trọng tâm, trọng điểm.

"Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ủy ban đã xác định đây là một trong những chương trình trọng tâm cần theo dõi đặc biệt trong toàn bộ hệ thống chương trình mục tiêu quốc gia.

Chúng tôi sẽ tiến hành giám sát ở 3 cấp độ: Thứ nhất là giám sát thể chế, xem xét các văn bản hướng dẫn, tiêu chí, định mức, cơ chế phân bổ vốn, để bảo đảm sự thống nhất giữa Chương trình với các luật, nghị quyết, và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội khác.

Thứ hai là giám sát thực thi: thông qua các phiên giải trình, khảo sát thực địa tại các địa phương, để nắm bắt tiến độ, đánh giá chất lượng, hiệu quả đầu tư, cũng như lắng nghe ý kiến từ cơ sở – nơi văn hóa đang "thở" cùng đời sống nhân dân.

Thứ ba là giám sát kết quả và tác động xã hội: đánh giá xem các mục tiêu có thực sự tạo chuyển biến trong đời sống văn hóa, trong phát triển con người, trong việc nâng cao năng lực sáng tạo và gìn giữ bản sắc dân tộc hay không", PGS.TS Bùi Hoài Sơn nói.

Ông Sơn cho biết thêm, trong quá trình này, Ủy ban cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Kinh tế và Tài chính, Kiểm toán Nhà nước và các Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, nhằm bảo đảm tính liêm chính trong đầu tư, tránh thất thoát, trùng lặp, dàn trải hoặc hình thức.

"Chúng tôi đặc biệt chú trọng đến hiệu quả cuối cùng: nguồn lực đầu tư có thực sự đến được với cộng đồng, với người dân, với các chủ thể sáng tạo hay không.

Tôi tin rằng nếu sự giám sát này được thực hiện đúng và nghiêm túc, nó sẽ không chỉ giúp chương trình đạt được mục tiêu đề ra, mà còn tạo tiền lệ tốt cho việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực văn hóa – xã hội trong tương lai. Hướng tới một nền quản trị công hiện đại, minh bạch và lấy con người làm trung tâm.

Văn hóa chỉ thật sự phát triển khi nó không dừng ở khẩu hiệu hay văn bản, mà trở thành hành động cụ thể, có kết quả, có sức lan tỏa trong đời sống.

Đó chính là tinh thần Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội luôn kiên trì theo đuổi trong công tác giám sát của mình", PGS.TS Bùi Hoài Sơn khẳng định.

9 nhóm mục tiêu phát triển văn hóa đến năm 2030 gồm:

(1) Hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình Việt Nam được triển khai thực hiện trên cả nước thông qua các bộ quy tắc ứng xử;

(2) Phấn đấu 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh có đủ 03 loại hình thiết chế văn hóa cấp tỉnh (Trung tâm Văn hóa hoặc Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Bảo tàng, Thư viện); bảo đảm vận hành hiệu quả các thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã, thôn;

(3) Phấn đấu hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo 95% di tích quốc gia đặc biệt (khoảng 120 di tích) và 70% di tích quốc gia (khoảng 2.500 di tích);

(4) Phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP của cả nước;

(5) Phấn đấu 100% đơn vị hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tin học hóa, chuyển đổi số, ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4;

(6) Phấn đấu 100% học sinh, học viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân được tiếp cận, tham gia các hoạt động giáo dục nghệ thuật, giáo dục di sản văn hóa;

(7) 90% văn nghệ sỹ tài năng, công chức, viên chức thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn;

(8) Các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật, điện ảnh, lý luận phê bình văn học, nghệ thuật xuất sắc, chất lượng cao được hỗ trợ sáng tác, công bố, phổ biến;

(9) Hằng năm, có ít nhất 05 sự kiện quốc tế lớn về văn hóa, nghệ thuật tại nước ngoài có sự tham gia chính thức của Việt Nam.

Cùng với đó là 10 nội dung thành phần:

1. Phát triển con người Việt Nam có nhân cách và lối sống tốt đẹp

2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh; phát triển hệ thống hạ tầng, cảnh quan, thiết chế văn hóa đồng bộ, hiệu quả

3. Nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền và giáo dục văn hóa

4. Bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc

5. Thúc đẩy phát triển văn học, nghệ thuật

6. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

7. Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hóa

8. Phát triển nguồn nhân lực văn hóa

9. Hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và lan tỏa các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới

10. Tăng cường công tác giám sát, đánh giá thực hiện chương trình, nâng cao năng lực thực hiện chương trình, truyền thông, tuyên truyền về chương trình.