Xã hội

Bộ trưởng Trần Hồng Minh: Cần tạo cơ chế linh hoạt để thu hút nhân tài khu vực công

22/10/2025, 14:15

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh đề nghị hoàn thiện chính sách về viên chức theo hướng công bằng, linh hoạt hơn, bảo đảm thu hút, trọng dụng nhân tài và thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các khu vực, lĩnh vực.

Dù là công chức hay viên chức, đều cống hiến như nhau

Sáng 22/10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, tham gia thảo luận tại tổ về dự án Luật Viên chức (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, mục tiêu của dự án Luật là phân định rõ ràng giữa công chức và viên chức trong bộ máy nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, ranh giới giữa hai nhóm này chưa thực sự rõ, trong khi chính sách đối với viên chức lại có phần ngặt nghèo hơn.

Bộ trưởng Trần Hồng Minh: Cần tạo cơ chế linh hoạt để thu hút nhân tài khu vực công- Ảnh 1.

Bộ trưởng Trần Hồng Minh đề nghị tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện linh hoạt hơn cho việc sử dụng nhân tài trong khu vực công. Ảnh: Yến Chi.

Theo Bộ trưởng, dù là công chức hay viên chức, khi đã được đào tạo trong cùng một hệ thống, đều có sự cống hiến và phấn đấu tương đương, do đó chính sách, chế độ cần nghiên cứu nhằm hướng tới bình đẳng về lao động và trí tuệ bỏ ra.

Ông cho rằng, cần nghiên cứu kỹ để hoàn thiện hơn các quy định, đảm bảo phù hợp thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực giáo dục đại học, nơi đang thực hiện cơ chế tự chủ.

Nhiều trường đại học hiện nay chạy theo số lượng sinh viên để đạt mức tự chủ, trong khi đội ngũ giảng viên, giáo sư, phó giáo sư, dù có nhiều đóng góp cho khoa học, đất nước, vẫn chỉ là viên chức, gặp khó khăn nếu muốn chuyển sang công chức để đóng góp, làm việc tại các cơ quan công quyền, do vướng điều kiện ràng buộc (như yêu cầu tối thiểu 5 năm công tác).

Bộ trưởng đề nghị xem xét tháo gỡ những rào cản này, tạo điều kiện linh hoạt hơn cho việc sử dụng nhân tài trong khu vực công, đặc biệt là các nhà khoa học, chuyên gia có trình độ cao.

Về chính sách tiền lương, Bộ trưởng nêu rõ sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền và giữa các đơn vị sự nghiệp công lập. Các cơ sở ở đô thị lớn có điều kiện, nguồn thu tốt thì quỹ lương cao; trong khi các đơn vị ở miền núi, vùng sâu vùng xa việc trả đủ mức tối thiểu cũng còn nhiều khó khăn. Do đó, cần có cơ chế hỗ trợ, điều phối nguồn lực hợp lý, bảo đảm công bằng và động lực cho người lao động.

Ông dẫn chứng: Cùng trong lĩnh vực giáo dục đại học, tại TP.HCM có trường bình quân lương giảng viên đạt tới 70 triệu đồng/tháng, trong khi trường khác chỉ khoảng 20 triệu. Tình trạng này dẫn đến chuyển dịch nhân sự từ nơi thu nhập thấp sang nơi cao.

Tương tự, trong khối doanh nghiệp nhà nước, có nơi lương hàng trăm triệu đồng/tháng, trong khi cán bộ ở các đơn vị hành chính lại hưởng thấp hơn nhiều, dù khối lượng công việc và trách nhiệm không nhỏ. Vì vậy, Luật cần hướng tới nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong thụ hưởng, bảo đảm tương quan hợp lý giữa các nhóm lao động trong khu vực công.

Về đánh giá công chức, viên chức, Bộ trưởng đề nghị nên xây dựng chung một thang đánh giá, tránh tình trạng chia tách, quy định quá cứng hoặc ngặt nghèo giữa hai khối.

Đối với tuyển dụng, ông nhấn mạnh cần linh hoạt hơn, đơn cử trường hợp sinh viên đi học quay trở về phục vụ địa phương, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu vùng xa, nên xét tuyển trực tiếp thay vì áp dụng các tiêu chuẩn thi tuyển ngặt nghèo như hiện nay. Điều này vừa khuyến khích nguồn nhân lực trẻ quay về quê hương, vừa đảm bảo đủ nhân lực cho khu vực khó khăn.

Bộ trưởng Trần Hồng Minh: Cần tạo cơ chế linh hoạt để thu hút nhân tài khu vực công- Ảnh 2.

Đại biểu Âu Thị Mai cho rằng cần linh hoạt hơn trong phương thức tuyển dụng viên chức. Ảnh: Phạm Thắng.

Có tiêu chí đánh giá viên chức cụ thể, tránh hình thức

Cũng tham gia thảo luận, đại biểu Âu Thị Mai (đoàn Tuyên Quang) nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng và linh hoạt hơn trong phương thức tuyển dụng viên chức, phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay.

Theo đại biểu, việc tuyển dụng không nên chỉ bó hẹp trong hình thức thi tuyển, mà cần kết hợp đa dạng các hình thức như đánh giá năng lực, phỏng vấn hoặc xét tuyển dựa trên năng lực thực tế của người dự tuyển. Điều này góp phần lựa chọn đúng người có năng lực, trình độ và phẩm chất phù hợp với yêu cầu công việc, đồng thời tạo cơ hội thu hút nhiều nhân tài vào khu vực công.

Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị điều chỉnh, phân định rõ thẩm quyền tuyển dụng và bổ nhiệm viên chức giữa các cấp có thẩm quyền để bảo đảm tính logic, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong thực hiện. Việc đăng ký dự tuyển cũng cần được nới lỏng hơn, tránh đặt ra các tiêu chí quá cứng nhắc, nhằm khuyến khích người có năng lực, trình độ thực sự tham gia làm việc trong khu vực công.

Đại biểu Âu Thị Mai cũng đề nghị bổ sung, làm rõ cơ chế tuyển dụng đặc cách và chính sách ưu tiên đối với các địa bàn khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đối tượng được đào tạo trong các ngành y, sư phạm và có nguyện vọng tình nguyện về công tác tại vùng đặc biệt khó khăn. Theo đại biểu, đây là nhóm nhân lực có khả năng gắn bó lâu dài với cơ sở, nhất là đội ngũ giáo viên, y bác sĩ, do đó cần được áp dụng chính sách đặc thù để khuyến khích, hỗ trợ và giữ chân nhân lực.

Về xác định vị trí việc làm, đại biểu đề nghị dự thảo luật cần quy định rõ công việc, nhiệm vụ gắn với từng chức danh, chức vụ, bảo đảm căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp.

Trong trường hợp đơn vị được giao quyền tự chủ toàn bộ về tài chính, cần trao quyền tự quyết định vị trí việc làm và số lượng người làm việc cho người đứng đầu đơn vị, nhằm phát huy tính chủ động, linh hoạt và nâng cao hiệu quả quản trị nhân sự trong khu vực sự nghiệp công lập.

Góp ý thêm vào dự án Luật, đại biểu Tráng A Dương (đoàn Tuyên Quang) nêu thực trạng nhiều năm qua, việc đánh giá, xếp loại công chức, viên chức ở không ít cơ quan, đơn vị vẫn mang nặng tính hình thức, thường chỉ dựa trên báo cáo tổng kết, bản tự nhận xét hoặc ý kiến thống nhất chung chung trong tập thể, thiếu cơ sở định lượng và minh chứng cụ thể.

Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung tiêu chí đánh giá cụ thể, minh bạch và có thể đo lường được, trong đó phải gắn kết chặt chẽ giữa hiệu quả công việc, thái độ phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, tổ chức.