ĐBQH cảnh báo 70% vụ ly hôn xảy ra ở người trẻ, đề nghị bổ sung chính sách hỗ trợ
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Thuỷ cho biết, mỗi năm Việt Nam ghi nhận trên 60.000 vụ ly hôn, chủ yếu xảy ra ở các gia đình trẻ trong độ tuổi từ 18 - 30, chiếm tới 70%.
Đề nghị có chính sách hỗ trợ cặp vợ chồng hiếm muộn
Sáng 2/12, Quốc hội thảo luận tại hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Thu Thuỷ (đoàn Gia Lai), một vấn đề xã hội đáng quan tâm hiện nay là tình trạng ly hôn. Tuy tỷ lệ chưa quá cao (khoảng 2,6%), điều đáng lo ngại là chủ yếu xảy ra ở các gia đình trẻ trong độ tuổi từ 18 - 30, chiếm 70%. Có 60% vụ ly hôn diễn ra chỉ sau 1 - 5 năm chung sống; thậm chí có trường hợp kết hôn vài tháng hoặc chỉ vài tuần đã ly hôn.

Đại biểu Nguyễn Thị Thu Thuỷ (đoàn Gia Lai). Ảnh: Phạm Thắng.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu gia đình và giới năm 2023 (công bố năm 2024), mỗi năm, Việt Nam ghi nhận trên 60.000 vụ ly hôn, chiếm khoảng 30% tổng số cặp đôi kết hôn.
Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn về lối sống và đặc biệt là khó khăn kinh tế (trên 13%). Hệ quả của ly hôn không chỉ tác động sâu sắc đến tâm sinh lý của trẻ em, mà còn có thể trở thành gánh nặng xã hội nếu trẻ bị bỏ rơi, thiếu sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đầy đủ.
Từ những phân tích trên, đại biểu đề xuất bổ sung ba nhóm chính sách vào Chương trình mục tiêu quốc gia.
Thứ nhất, nhóm chính sách hỗ trợ gia đình trẻ và lao động trẻ, cụ thể là hỗ trợ việc làm và tư vấn tâm lý cho người lao động tại doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển cho lao động trẻ chưa lập gia đình, bên cạnh những chính sách ưu tiên mua nhà ở xã hội, tăng thời gian nghỉ thai sản, hỗ trợ phụ nữ sinh con trước 35 tuổi…
Mặt khác, cần ưu tiên hỗ trợ dịch vụ trông giữ trẻ, mô hình chăm sóc trẻ với khung thời gian linh hoạt, phù hợp công nhân, người lao động làm việc theo ca. Đặc biệt, đại biểu đề nghị tăng mức hưởng chế độ thai sản (ngoài thời gian nghỉ theo quy định) và bổ sung hỗ trợ chăm sóc tâm sinh lý sau sinh.
Thứ hai là nhóm chính sách hỗ trợ trẻ em sau ly hôn và trẻ em yếu thế, trong đó bổ sung chính sách hỗ trợ tư vấn tâm lý định kỳ và chăm sóc sức khỏe thể chất cho trẻ em trong gia đình hậu ly hôn, trẻ yếu thế, trẻ mồ côi do Covid-19, thiên tai, bão lũ… đến khi các em trưởng thành.
Thứ ba là nhóm chính sách hỗ trợ sinh sản. Theo đại biểu, hiện nay, Luật Bảo hiểm y tế đã mở rộng phạm vi thanh toán cho nhiều nhóm bệnh, nhưng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vẫn chưa được đưa vào. Trong bối cảnh mức sinh giảm và tỷ lệ vô sinh thứ phát tăng cao, đây là vấn đề cần được quan tâm đúng mức.
"Đề nghị Chương trình mục tiêu quốc gia bổ sung chính sách hỗ trợ các cặp vợ chồng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, dành nguồn lực để đặt hàng, đầu tư cho các bệnh viện công nghiên cứu và phát triển kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Đồng thời, có chính sách hỗ trợ đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn, coi đây như một loại bệnh thông thường để được hưởng chế độ phù hợp, qua đó góp phần nâng cao chất lượng và số lượng dân số", đại biểu Thủy đề xuất.
Đề nghị tăng tỷ trọng vốn cho công tác dân số và phát triển
Đại biểu Lý Thị Lan (đoàn Tuyên Quang) cho biết, dù dự thảo chủ trương đầu tư Chương trình đã có điều chỉnh trong báo cáo tiếp thu, giải trình, nhưng tỷ trọng vốn dành cho lĩnh vực dân số và phát triển chưa tương xứng với mục tiêu.

Đại biểu Lý Thị Lan (đoàn Tuyên Quang). Ảnh: Media Quốc hội.
Đại biểu nhấn mạnh, trong bối cảnh xu hướng già hóa dân số nhanh hơn dự báo, mức sinh giảm tại nhiều địa phương, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và chất lượng dân số tại vùng khó khăn còn thấp, chúng ta đang phải đối mặt những thách thức rất lớn.
"Nếu không bố trí nguồn lực tương xứng, sẽ rất khó duy trì lực lượng lao động, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao chất lượng dân số", đại biểu nhấn mạnh và đề nghị rà soát, tăng tỷ trọng vốn cho nội dung dân số và phát triển tại Chương trình, theo hướng quy định rõ mức phân bổ tối thiểu và bảo đảm phù hợp với yêu cầu tái cấu trúc dân số trong bối cảnh mới.
Qua nghiên cứu các dự án của chương trình, đại biểu Lê Thị Thanh Lam (đoàn TP Cần Thơ) cũng cho rằng, phân bổ các nguồn lực đầu tư chưa đảm bảo sự cân đối, hài hòa trong việc thực hiện hai mục tiêu quan trọng của chương trình là chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển.
Báo cáo thẩm tra chỉ rõ mức đầu tư cho nội dung về dân số và phát triển chỉ chiếm tỷ lệ 15,5%, bao gồm cả nguồn của ngân sách của địa phương, so với hạn mức đầu tư trong giai đoạn 2026 - 2030. Toàn bộ nguồn vốn này là vốn thường xuyên, không bố trí nguồn vốn đầu tư để thực hiện tư vấn kiến thức, tổ chức hội thảo, tọa đàm, tập huấn cho nhân dân.
Đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nguồn lực đầu tư công và cơ sở vật chất để đáp ứng việc thực hiện và thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết, kết luận của Trung ương, của Bộ Chính trị về công tác dân số và phát triển; đặc biệt là đầu tư cho sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh để nâng cao chất lượng về dân số.
Cuối phiên thảo luận, giải trình làm rõ ý kiến đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035 có 5 dự án và các tiểu dự án trực thuộc. Dự án 3 về dân số và phát triển có tổng kinh phí 29.668 tỷ đồng, chiếm 23,6%.
Ngoài ra, các dự án 1, 2, 4 và 5 đều có nội dung phục vụ trực tiếp cho công tác dân số; riêng dự án 5 có tiểu dự án truyền thông dân số gần 500 tỷ đồng.
"Như vậy, đánh giá tỷ lệ dành cho dân số thấp là chưa chính xác. Phương án phân bổ đã được Bộ Tài chính và Kiểm toán Nhà nước cho ý kiến, bảo đảm phù hợp và khả thi", Bộ trưởng nhấn mạnh.