Đề xuất thống nhất phương pháp lập dự toán chi phí bảo trì hạ tầng đường thủy nội địa
Dự thảo Thông tư của Bộ Xây dựng hướng dẫn phương pháp xác định chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa đang được lấy ý kiến được kỳ vọng sẽ tạo ra một công cụ pháp lý thống nhất, thay thế các phương pháp định giá không còn phù hợp.
Đáng chú ý, dự thảo quy định rõ phương pháp lập dự toán cho từng nhóm công việc, đặc biệt là bổ sung các định mức tỷ lệ phần trăm (%) cho các chi phí chung, chi phí nhà tạm, chi phí quản lý... vốn đang thiếu cơ sở pháp lý, gây vướng mắc trong thực tiễn đấu thầu và thanh kiểm toán.
Giải bài toán "khoảng trống pháp lý" trong quản lý chi phí bảo trì
Bộ Xây dựng cho biết, việc xây dựng và ban hành Thông tư hướng dẫn phương pháp xác định chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa (ĐTNĐ) là yêu cầu cấp thiết xuất phát từ cả cơ sở pháp lý và thực tiễn.

Dự thảo Thông tư được kết cấu gồm 08 Điều và 04 Phụ lục, áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý và thực hiện bảo trì kết cấu hạ tầng ĐTNĐ sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Theo Tờ trình dự thảo, điểm nghẽn mấu chốt đến từ Luật Giá mới, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, trong đó không còn quy định dịch vụ quản lý, bảo trì kết cấu ĐTNĐ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá.
Quy định mới này khiến cho Thông tư số 38/2020/TT-BGTVT (hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ) và các văn bản sửa đổi, vận dụng liên quan (như Thông tư 23/2022/TT-BGTVT) không còn phù hợp để áp dụng.
Thực trạng này đã tạo ra một khoảng trống pháp lý, dẫn đến việc hiện nay chưa có quy định cụ thể để xác định dự toán chi phí bảo trì làm cơ sở triển khai theo phương thức đấu thầu.
Về mặt thực tiễn, Bộ Xây dựng chỉ rõ Luật Đấu thầu yêu cầu việc triển khai phải căn cứ vào giá gói thầu, vốn được xác định trên cơ sở dự toán. Do thiếu quy định, các đơn vị đang phải "vận dụng" phương pháp định giá của Thông tư 38 (vốn dành cho phương thức đặt hàng) để xây dựng dự toán cho gói thầu.
Bộ Xây dựng nhận định, việc vận dụng này dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cho một số khoản mục chi phí quan trọng như chi phí quản lý, chi phí chung, chi phí nhà tạm. Đây chính là nguyên nhân gây ra các vướng mắc, ách tắc trong quá trình thanh tra, kiểm toán thời gian qua.
Một lý do quan trọng khác được Bộ Xây dựng nêu ra là đặc thù của hạ tầng ĐTNĐ. Kết cấu hạ tầng này không chỉ bao gồm các công trình xây dựng (cảng, bến, âu tàu) mà còn có luồng đường thủy nội địa và hành lang bảo vệ luồng.
Do đó, việc áp dụng cứng Thông tư 14/2021/TT-BXD (hướng dẫn chi phí bảo trì công trình xây dựng) là không phù hợp. Ví dụ, không thể xác định chi phí bảo trì theo tỷ lệ phần trăm (%) của chi phí xây dựng đối với luồng ĐTNĐ, vốn đa số tận dụng điều kiện tự nhiên và chỉ có giá trị quy ước, không có chi phí xây dựng ban đầu rõ ràng.
Từ những phân tích trên, Bộ Xây dựng khẳng định mục tiêu của Thông tư là hoàn thiện hành lang pháp lý và tạo ra một công cụ pháp lý thống nhất để các cơ quan, tổ chức có cơ sở lập, thẩm định và quản lý chi phí bảo trì hạ tầng ĐTNĐ trên phạm vi toàn quốc.
"Luật hóa" các chi phí chung, chi phí nhà tạm bằng định mức tỷ lệ %
Dự thảo Thông tư được kết cấu gồm 08 Điều và 04 Phụ lục, áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý và thực hiện bảo trì kết cấu hạ tầng ĐTNĐ sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Điểm nổi bật nhất của dự thảo là việc phân tách rõ ràng 3 nhóm chi phí bảo trì và đưa ra phương pháp lập dự toán cụ thể cho từng nhóm, giải quyết trực tiếp các vướng mắc trong thực tiễn.

Dự thảo Thông tư của Bộ Xây dựng hướng dẫn phương pháp xác định chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa (ĐTNĐ) đã được lấy ý kiến rộng rãi.
Một là, đối với chi phí quản lý, bảo dưỡng thường xuyên công trình đường thủy nội địa, Điều 3 dự thảo quy định chi phí này được xác định bằng cách lập dự toán.
Đây là nội dung có nhiều điểm mới và chi tiết nhất. Dự toán này bao gồm 4 thành phần chính: Chi phí thực hiện công việc (như bảo trì báo hiệu, đo dò bãi cạn), chi phí quản lý của chủ đầu tư, chi phí tư vấn (như lập dự toán, lập hồ sơ mời thầu) và chi phí khác (như kiểm toán, thẩm tra quyết toán).
Trong đó, "Chi phí thực hiện công việc quản lý, bảo dưỡng thường xuyên" (hướng dẫn tại Phụ lục II) được bóc tách chi tiết gồm: Chi phí trực tiếp (vật liệu, nhân công, máy), chi phí chung, thu nhập chịu thuế tính trước, thuế giá trị gia tăng và chi phí nhà tạm.
Đây chính là điểm mấu chốt để "luật hóa" các chi phí vốn đang thiếu cơ sở pháp lý. Dự thảo đã đưa ra các định mức tỷ lệ phần trăm (%) cụ thể để xác định các chi phí này.
Ví dụ, chi phí chung được xác định bằng tỷ lệ % nhân với chi phí nhân công (cụ thể là 66% cho gói thầu có chi phí nhân công trong chi phí trực tiếp ≤ 15 tỷ đồng); Chi phí nhà tạm được xác định bằng tỷ lệ % nhân với chi phí trực tiếp (ví dụ, 2,2% cho gói có chi phí trực tiếp ≤ 15 tỷ đồng) và thu nhập chịu thuế tính trước được tính bằng 6% tổng chi phí trực tiếp và chi phí chung. Tương tự, Phụ lục III cũng quy định định mức tỷ lệ % cho chi phí quản lý của chủ đầu tư.
Hai là, đối với chi phí sửa chữa công trình đường thủy nội địa (bao gồm sửa chữa định kỳ và đột xuất), Điều 4 dự thảo quy định rõ: Chi phí được xác định theo quy định dự toán xây dựng công trình tại Thông tư hướng dẫn xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng của Bộ Xây dựng. Điều này là hoàn toàn hợp lý, bởi các công việc như nạo vét duy tu luồng, sửa chữa âu tàu, kè, nhà trạm về bản chất chính là các hoạt động xây dựng.
Ba là, đối với chi phí các công việc khác trong kế hoạch bảo trì hàng năm, Điều 5 đưa ra một quy định rất linh hoạt. Các công việc này bao gồm khảo sát định kỳ luồng, điều tiết khống chế đảm bảo an toàn giao thông, kiểm định, quan trắc, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, hay ứng dụng công nghệ.
Dự thảo phân loại các công việc này để áp dụng phương pháp tính toán phù hợp: Các công việc có tính chất xây dựng (như khảo sát, kiểm định) sẽ lập dự toán theo quy định về chi phí đầu tư xây dựng; các công việc có tính chất thường xuyên (như điều tiết giao thông, thường trực chống va trôi) sẽ lập dự toán tương tự như chi phí quản lý, bảo dưỡng thường xuyên quy định tại Điều 3 và các công việc có tính chất tư vấn hoặc cung cấp dịch vụ (như lập quy trình, đánh giá an toàn) sẽ xác định chi phí trên cơ sở định mức, đơn giá hoặc báo giá của các đơn vị tư vấn.
Ngoài ra, Điều 7 dự thảo cũng đưa ra hướng dẫn mang tính thực tiễn cao về quản lý định mức và đơn giá. Theo đó, trường hợp các vật tư, vật liệu, nhân công... phục vụ bảo trì chưa có trong công bố giá của địa phương hoặc có nhưng chưa phù hợp, chủ đầu tư được tổ chức khảo sát, thu thập thông tin từ báo giá của nhà cung cấp hoặc giá tương tự đã thực hiện để quyết định việc áp dụng lập đơn giá.
Có thể thấy, dự thảo Thông tư khi được ban hành sẽ giải quyết đồng thời ba vấn đề lớn: Thay thế các phương pháp định giá đã hết hiệu lực pháp lý; Cung cấp cơ sở pháp lý vững chắc cho các khoản mục chi phí (như chi phí chung, chi phí nhà tạm, chi phí quản lý) vốn đang gây vướng mắc trong đấu thầu và quyết toán. Đồng thời, phân loại rõ ràng các phương pháp tính toán phù hợp với từng đặc thù của công tác bảo trì ĐTNĐ.
Đây sẽ là một công cụ pháp lý quan trọng, đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch và thống nhất trong việc lập, thẩm định và quản lý hiệu quả nguồn vốn bảo trì cho toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa trên phạm vi toàn quốc.