Đề xuất sửa tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển
Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến cho dự thảo Tiêu chuẩn quốc gia yêu cầu chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển.
Nhiều đèn biển đã có điện lưới, thiết bị hiện đại
Theo Cục Hàng hải và Đường thủy VN, năm 2015, Bộ trưởng Bộ Khoa học công nghệ đã ban hành Tiêu chuẩn quốc gia yêu cầu chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển, được sử dụng để quy định quy trình, tiêu chí chung đánh giá chất lượng của dịch vụ vận hành đèn biển.

Việc xây dựng sửa đổi tiêu chuẩn quốc gia về yêu cầu chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển là cần thiết để có cơ sở đánh giá chất lượng của dịch vụ vận hành đèn biển tại Việt Nam.
Tuy nhiên thời gian qua, có nhiều trạm đèn biển đã được bố trí điện lưới quốc gia. Đặc biệt, nhiều trạm đã bổ sung các trang thiết bị báo hiệu, thiết bị phục vụ quản lý hiện đại như hệ thống AIS, các trạm quan trắc và cung cấp thông tin khí tượng thủy văn tự động, hệ thống giám sát và điều khiển từ xa...
Do đó, các yêu cầu về dịch vụ như yêu cầu chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển, bố trí nhân lực, tiêu chuẩn công nhân vận hành báo hiệu hàng hải, công tác bảo trì, bảo dưỡng, các yêu cầu đối với công tác quản lý hay công tác đánh giá, kiểm tra... cần được xem xét, rà soát cho phù hợp.
Từ đây, cơ quan soạn thảo cho rằng, việc xây dựng sửa đổi tiêu chuẩn quốc gia về yêu cầu chất lượng dịch vụ vận hành đèn biển là cần thiết để có cơ sở đánh giá chất lượng của dịch vụ vận hành đèn biển tại Việt Nam.
Đèn biển xa bờ hoặc không có người thường trực được yêu cầu riêng về nguồn năng lượng
Điểm đáng chú ý tại dự thảo là đề xuất sửa đổi nhiều nội dung liên quan tới việc bố trí thiết bị trên đèn biển để phù hợp với tình hình thực tế.
Theo đó, đối với việc bố trí trạm quản lý đèn biển, yêu cầu vị trí xây dựng đèn biển phải tuân thủ theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu hàng hải và pháp luật về xây dựng. Nhà trạm phục vụ công tác quản lý, vận hành đèn biển được bố trí phù hợp, thuận tiện cho công tác quản lý, vận hành.
Theo tình huống thực tế không thiết lập được nhà trạm đi liền với công trình, thì bố trí các đèn biển không người thường trực, sử dụng nhân lực của trạm quản lý báo hiệu ở khu vực gần đèn quản lý.
Điều này nhằm phù hợp với việc bố trí trạm quản lý đèn biển đối với trường hợp trạm đèn có người thường trực và không có người thường trực.
Ngoài ra, trong yêu cầu về thiết bị báo hiệu ánh sáng, dự thảo đề xuất với đèn biển có người thường trực tại vị trí các đảo độc lập, xa bờ, điều kiện địa hình khó tiếp cận cần trang bị thêm một bộ thiết bị báo hiệu ánh sáng khẩn cấp tại trạm đèn. Bộ thiết bị này có đặc tính ánh sáng, tầm hiệu lực tối thiểu giống đèn dự phòng để nâng cao độ tin cậy.
Cùng đó, để đảm bảo điều kiện đáp ứng việc quản lý, vận hành đèn biển đảm bảo chỉ số khả dụng yêu cầu, dự thảo điều chỉnh để quy định rõ thiết bị, số lượng của nguồn cung cấp năng lượng điện.
Cụ thể, đối với đèn biển có người thường trực, phải có ít nhất 2 hệ thống cung cấp năng lượng điện độc lập, đảm bảo khả năng cung cấp điện ổn định, liên tục cho các thiết bị tại trạm đèn biển.
Trong đó, đèn biển đã lắp đặt điện lưới được trang bị 1 máy phát điện có công suất phù hợp và 1 nguồn năng lượng điện tự nhiên đảm bảo duy trì hoạt động cho báo hiệu tối thiểu 7 ngày không có nạp điện bổ sung.
Đèn biển chưa có điện lưới được trang bị 2 máy phát điện có công suất phù hợp và 1 nguồn năng lượng điện tự nhiên đảm bảo duy trì hoạt động cho báo hiệu tối thiểu 7 ngày không có nạp điện bổ sung.
Riêng với đèn biển chưa có điện lưới tại vị trí các đảo độc lập, xa bờ, điều kiện địa hình khó tiếp cận phải trang bị thêm 1 máy phát điện có công suất phù hợp. Với trạm đèn biển không có người thường trực, nguồn cung cấp năng lượng điện phải đảm bảo duy trì hoạt động cho báo hiệu tối thiểu 10 ngày.
Dự thảo cũng đề xuất bổ sung nội dung yêu cầu chỉ số khả dụng ứng với chu kỳ đánh giá 6 tháng để phù hợp với các quy định hiện hành và thực tế thực hiện. Bổ sung tiêu chuẩn về bố trí trạm quản lý đèn biển, cũng như sửa đổi tiêu chuẩn định biên nhân lực (điều chỉnh giảm nhân lực tối thiểu) và tiêu chuẩn cấp bậc thợ phù hợp với điều kiện thực tế.