Hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia: Phát triển theo hướng xanh, thông minh, bền vững
Nghị quyết số 306/NQ-CP định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn theo hướng đồng bộ, hiện đại, xanh và bền vững, trở thành động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Đô thị là động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững
Một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong Nghị quyết số 306/NQ-CP về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, vừa được Chính phủ ban hành mới đây, là định hướng tổng thể phát triển hệ thống đô thị và nông thôn.

Nghị quyết định hướng hình thành hệ thống đô thị có vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. (Ảnh: Việt Dũng).
Về tổng thể phát triển hệ thống đô thị, Nghị quyết định hướng đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa phù hợp với quy hoạch; hình thành hệ thống đô thị có vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Quá trình này được đặt trong yêu cầu "kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị và phát triển các đô thị mới", nhằm nâng cao chất lượng phát triển, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống đô thị quốc gia.
Phát triển hệ thống đô thị bền vững theo mạng lưới, phân bố hợp lý và cân đối giữa các vùng, bảo đảm tính liên kết và thống nhất trong không gian quốc gia.
Các đô thị sẽ được phát triển theo hướng xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời ưu tiên mô hình phát triển đô thị nén gắn với không gian công cộng, không gian xanh và sinh thái, nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất và tài nguyên.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh yêu cầu phát triển đô thị gắn với định hướng giao thông công cộng (TOD), coi đây là giải pháp quan trọng để hạn chế mở rộng tràn lan, giảm áp lực hạ tầng và bảo vệ môi trường.
Việc quản lý phát triển đô thị sẽ được thực hiện song song với quản lý đất đai, nhà ở, thị trường bất động sản và hạ tầng kỹ thuật - xã hội, tạo nền tảng cho quản lý đô thị hiện đại, minh bạch và hiệu quả hơn.
Nghị quyết 306/NQ-CP xác định rõ định hướng phát triển hệ thống đô thị ven biển và hải đảo, bảo đảm tính bền vững và gìn giữ hệ sinh thái tự nhiên; đồng thời khuyến khích phát triển đô thị gắn với bảo tồn di sản, yếu tố văn hóa - lịch sử, tạo bản sắc riêng cho từng địa phương.
Bốn vùng đô thị lớn: Động lực, hạt nhân phát triển không gian quốc gia
Nghị quyết định hướng phân bố 4 vùng đô thị lớn, có vai trò là cực tăng trưởng, động lực phát triển quốc gia gồm: Vùng đô thị Hà Nội, Vùng đô thị TP.HCM, Vùng đô thị Đà Nẵng - Huế và Vùng đô thị Cần Thơ.

Hà Nội phát triển không gian đô thị gắn với các trục không gian mở, cây xanh, mặt nước, không gian công cộng, kiến trúc cảnh quan.
Theo đó, vùng đô thị Hà Nội xây dựng hệ thống đô thị gồm TP Hà Nội và các đô thị lân cận của các tỉnh xung quanh trong vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Trung du miền núi phía Bắc, nhằm chia sẻ chức năng giữa các đô thị - đầu tàu về giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, thương mại, dịch vụ, du lịch, hành chính, hạ tầng, sự phát triển của vùng Thủ đô Hà Nội.
Tập trung phát triển TP Hà Nội theo hướng mở rộng không gian đô thị về phía Bắc sông Hồng và phía Tây, hình thành các hành lang phát triển đô thị dọc theo các tuyến đường vành đai, hướng tâm, trục Đông - Tây, Bắc - Nam, gắn với các tuyến đường Vành đai 4, Vành đai 5, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Hoà Bình, Hà Nội - Sơn Tây.
Vùng đô thị Hà Nội kết nối các khu đô thị, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu thương mại, dịch vụ, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, khu du lịch.
Phát triển không gian đô thị gắn với các trục không gian mở, cây xanh, mặt nước, không gian công cộng, kiến trúc cảnh quan; bảo đảm kết nối đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hạ tầng số.
Phát triển TP Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, năng động, sáng tạo, dẫn dắt; đầu tàu trong khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế, tài chính - ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế.
Tập trung xây dựng hệ thống hạ tầng đô thị hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, thoát nước, sớm khắc phục tình trạng úng ngập, úng lụt. Đẩy nhanh tiến độ các dự án đường sắt đô thị, gắn với triển khai mô hình phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD).
Xây dựng thêm các cây cầu qua sông Hồng, sông Đuống. Quản lý, kiểm soát chặt không gian ngầm đô thị, sử dụng hiệu quả, bền vững quỹ đất đô thị.
Xây dựng, phát triển các đô thị của Thủ đô Hà Nội, các đô thị vệ tinh có hạ tầng đồng bộ, tiện ích và dịch vụ đô thị, giao thông kết nối thuận tiện với trung tâm, giảm tải khu vực nội đô và mở rộng không gian phát triển của Hà Nội.

Vùng đô thị TP.HCM tập trung phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại. (Ảnh: Việt Dũng).
Vùng đô thị TP.HCM xây dựng hệ thống đô thị gồm TP.HCM và các đô thị lân cận thuộc các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhằm chia sẻ chức năng về dịch vụ, công nghiệp, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, hành chính; hạn chế sự tập trung quá mức vào đô thị trung tâm TP.HCM.
Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại, bao gồm các trục từ khu vực lõi đô thị TP.HCM kết nối với các đô thị lớn của vùng, các đường vành đai 3, vành đai 4 và các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt kết nối cảng hàng không, cảng biển cửa ngõ quốc tế, thúc đẩy liên kết và lan tỏa phát triển kinh tế - xã hội cho cả khu vực phía Nam.
Đẩy nhanh hình thành các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ dọc theo các đường Vành đai 3, Vành đai 4; Xây dựng đường sắt đô thị gắn với phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD) dọc các tuyến; Phát triển đô thị sân bay cửa ngõ quốc tế Long Thành.
Khu vực lõi đô thị TP.HCM là đô thị hạt nhân, trung tâm phát triển của toàn vùng; phát triển đô thị thông minh; chuyển nhanh sang dịch vụ chất lượng cao, tăng trưởng xanh, tài chính tầm cỡ quốc tế, công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ; đổi mới sáng tạo; giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ; phát triển không gian ngầm, nhà ở, hạ tầng giao thông, thoát nước, xử lý rác thải; phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đồng bộ, hiện đại; bảo đảm an sinh xã hội, môi trường sống tốt, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Chú trọng khai thác tiềm năng, thế mạnh về quỹ đất và quỹ đất phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, hạ tầng xã hội phục vụ người lao động.
Phát triển TP.HCM trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của cả nước, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.

TP Đà Nẵng là cực tăng trưởng, động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Vùng đô thị Đà Nẵng - Huế xây dựng hệ thống đô thị theo mô hình chuỗi đô thị, bao gồm khu vực đô thị TP Đà Nẵng và TP Huế và các đô thị lân cận trên địa bàn 2 TP; phát triển trở thành trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ số; một trong những trung tâm giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ của đất nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế.
Phát huy vai trò của TP Đà Nẵng là cực tăng trưởng, động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, cùng với đô thị Huế thúc đẩy phát triển khu vực phía Nam của vùng Bắc Trung bộ, trở thành chuỗi đô thị động lực quan trọng của khu vực miền Trung và cả nước.
Vùng đô thị Cần Thơ xây dựng hệ thống đô thị với đô thị trung tâm là TP Cần Thơ và các đô thị lân cận; phát triển Cần Thơ thành trung tâm dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp công nghệ cao, giáo dục, đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học, công nghệ, văn hoá, thể thao của cả vùng.
Khai thác trục giao thông kết nối Cần Thơ - Mỹ Thuận - Trung Lương - TP.HCM để tập trung phát triển đô thị, tạo sự lan tỏa tới các khu vực khác trong vùng. Phát triển TP Cần Thơ là cực tăng trưởng, thúc đẩy phát triển toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Vùng đô thị Cần Thơ xây dựng hệ thống đô thị với đô thị trung tâm là TP Cần Thơ và các đô thị lân cận. (Ảnh: CTV Đào Văn)
Phát triển nông thôn hiện đại, xanh và gắn kết với đô thị
Một điểm quan trọng khác trong Nghị quyết 306/NQ-CP là định hướng phát triển nông thôn hiện đại, toàn diện, xanh và bền vững, gắn chặt với quá trình đô thị hóa. Nghị quyết đặt mục tiêu xây dựng nông thôn mới có hạ tầng và dịch vụ xã hội đồng bộ, tiệm cận đô thị, trong khi vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo sinh kế bền vững cho người dân thông qua các chương trình như OCOP (mỗi xã một sản phẩm).
Nghị quyết nêu rõ cần đầu tư tương xứng để tăng cường năng lực cho chính quyền cấp xã, đẩy mạnh chuyển đổi số, số hóa dịch vụ công, bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành hiệu quả ở cấp cơ sở.
Việc tổ chức không gian dân cư nông thôn sẽ phù hợp với điều kiện tự nhiên, văn hóa, dân tộc và kinh tế – xã hội của từng vùng; đồng thời hỗ trợ di dời, sắp xếp dân cư ở những khu vực có nguy cơ cao về thiên tai, sạt lở.
Khuyến khích phát triển nông nghiệp đô thị, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính, coi đây là hướng đi tất yếu để nông thôn gắn kết hài hòa với đô thị, cùng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Đặc biệt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được ưu tiên phát triển toàn diện, bền vững, khai thác hợp lý tiềm năng và lợi thế của vùng, đồng thời rút ngắn khoảng cách phát triển, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân.
Với những định hướng cụ thể nói trên, Nghị quyết 306/NQ-CP đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống đô thị - nông thôn quốc gia hài hòa, gắn kết và bền vững, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.