Khát vọng hóa Rồng
Từ một đất nước chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, một thời gian dài phụ thuộc vào viện trợ, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực, là điểm sáng của thế giới.
Các chuyên gia kinh tế, nhà ngoại giao đến từ những đối tác quan trọng hàng đầu đều có chung nhận định, với tiềm lực và vị thế đã có, Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được những bước tiến ngoạn mục.
Đại sứ Australia tại Việt Nam Gillian Bird: Việt Nam ngày càng giữ vai trò chủ động, uy tín

Tôi đặc biệt ấn tượng với sự phát triển của Việt Nam trong suốt 80 năm qua. Từ một đất nước chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực, là một quốc gia hướng ngoại và ngày càng tích cực hội nhập quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam giữ vai trò chủ động, có uy tín tại nhiều tổ chức đa phương quan trọng như Liên Hợp quốc và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Đại sứ Australia tại Việt Nam Gillian Bird. Ảnh: Thống Nhất - TTXVN.
Những dấu mốc như công cuộc Đổi mới năm 1986, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, cùng việc ký kết các Hiệp định Thương mại tự do như: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Australia/New Zealand (AANZFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập toàn cầu của Việt Nam.
Hiện Việt Nam là nền kinh tế có thu nhập trung bình với tốc độ tăng trưởng hơn 7%/năm. Chúng tôi ủng hộ mục tiêu của Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, vì sự thịnh vượng của Việt Nam sẽ đóng góp cho một khu vực ổn định và phát triển hơn.
Australia là đối tác tin cậy, bền bỉ của Việt Nam từ năm 1973 và hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2024.
Đó là nền tảng vững chắc để hai bên tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo và chuyển đổi số.
Australia đang đầu tư 90 triệu AUD thông qua chương trình Aus4Growth (2024-2031) nhằm hỗ trợ phát triển bao trùm, bền vững trong các lĩnh vực năng lượng sạch, giao thông, thương mại và số hóa.
Ngay trong buổi làm việc gần đây với Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, chúng tôi đã thảo luận việc mở rộng hỗ trợ này sang lĩnh vực giao thông và hạ tầng.
Chuyển đổi số cũng là một lĩnh vực hợp tác đầy triển vọng.
Đầu năm nay, tôi rất vui mừng khai trương Trung tâm Công nghệ chiến lược Australia - Việt Nam tại Hà Nội, một nền tảng kết nối các nhà nghiên cứu, doanh nhân và doanh nghiệp hai nước để cùng phát triển giải pháp trong nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng sạch và đổi mới số.
Thời gian tới, để thu hút thêm nhà đầu tư Australia, theo tôi, Việt Nam cần tiếp tục hiện đại hóa khung pháp lý, đơn giản hóa thủ tục cấp phép và củng cố thể chế để theo kịp quá trình chuyển đổi kinh tế.
Ngoài ra cần tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và khối đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo, hàng không và số hóa, qua đó, góp phần nâng cao năng suất và tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực.
Lực lượng lao động có tay nghề là một lợi thế then chốt của Việt Nam. Do đó, cần mở rộng đào tạo STEM và giáo dục nghề trong các lĩnh vực xanh và đổi mới sáng tạo sẽ giúp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư toàn cầu.
Australia đang hỗ trợ những nỗ lực này thông qua các nhóm giao dịch đầu tư tại TP.HCM nhằm tìm kiếm cơ hội, huy động dòng vốn và các đối tác như: Biên bản ghi nhớ giữa Tổ chức Tài chính Xuất khẩu Australia và Ngân hàng Phát triển Việt Nam để đồng tài trợ các dự án hạ tầng bền vững.
Qua việc tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực chiến lược, Australia và Việt Nam đang cùng nhau xây dựng một khu vực thịnh vượng, bền vững và kết nối số tốt hơn cho tất cả chúng ta.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Knapper: Tin tưởng triển vọng tăng trưởng của Việt Nam

Năm nay là một năm quan trọng, mang tính lịch sử khi đây vừa là dịp kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh Việt Nam nhưng đồng thời là 80 năm kể từ khi Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu hợp tác.
Đó là sự kiện năm 1945, biệt đội con Nai (Deer Team) thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ đã nhảy dù xuống chiến khu Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang ở miền Bắc Việt Nam, để giúp đỡ Việt Minh trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Từ những bước đi dẫu khiêm tốn giữa Hoa Kỳ và Việt Minh, hai bên đã bắt đầu xây dựng tình hữu nghị. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, thật đáng buồn là chúng ta đã trải qua một giai đoạn lịch sử bi thảm - lịch sử của chiến tranh.
Nhưng kể từ khi bình thường hóa quan hệ, hai nước đã xây dựng mối quan hệ dựa trên sự tôn trọng đối với thể chế chính trị, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Đó chính là nền tảng cho mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam hiện nay. Chúng tôi ủng hộ một Việt Nam vững mạnh, độc lập, thịnh vượng và kiên cường.
Tính đến ngày 16/5, Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với 13 quốc gia. Đó là: Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore và Thái Lan.
Chỉ 30 năm kể từ khi bình thường hóa, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được thật đáng kinh ngạc. Đáng chú ý nếu như năm 1995, gần như không có hoạt động thương mại và hợp tác rất hạn chế thì giờ đây, chúng ta đã có quan hệ thương mại trị giá 150 tỷ USD.
Trong hành trình 30 năm đó, tôi có hơn 20 năm gắn bó với Việt Nam. Điều không bao giờ thay đổi với tôi là tình cảm dành cho con người Việt Nam, luôn cởi mở, sáng tạo, dũng cảm, cần cù. Đó là những phẩm chất cần thiết để dám mạo hiểm, nắm bắt cơ hội và cũng chính là những phẩm chất tạo điều kiện để hai quốc gia cùng nhau tiến về phía trước.
Thành thật mà nói, điều đó đòi hỏi sự dũng cảm. Phải có dũng khí từ các nhà lãnh đạo, cựu chiến binh và người dân ở cả hai nước từ hơn 30 năm trước, để quyết định theo đuổi việc bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia.
Tôi tin, lòng can đảm là một phẩm chất cốt lõi của người Việt Nam. Sự sáng tạo, tinh thần dám mạo hiểm và sẵn sàng chấp nhận rủi ro cũng là những yếu tố góp phần vào sự phát triển của quan hệ hai nước.
Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng. Việt Nam có khát vọng trở thành nền kinh tế công nghệ cao, thu nhập cao trong hai thập kỷ tới và chúng tôi hoàn toàn ủng hộ. Chúng tôi muốn trở thành một phần của hành trình đó và tin tưởng mạnh mẽ Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng trong khu vực và trên toàn cầu.
Hướng đến tương lai, tôi vô cùng lạc quan, tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng, thịnh vượng và vai trò an ninh tích cực của Việt Nam trong khu vực. Điều đó đến từ chính sự năng động và tầm nhìn của lãnh đạo Việt Nam.
Bên cạnh rất nhiều lĩnh vực hợp tác như giáo dục, năng lượng, công nghệ là một lĩnh vực chiến lược then chốt, chúng tôi mong các công ty công nghệ tiên tiến nhất của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đầu tư tại Việt Nam, hợp tác với các đối tác, tìm cách phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giúp lực lượng lao động mạnh mẽ hơn và có năng lực đối mặt với các thách thức và tận dụng các cơ hội của thế kỷ XXI.
Tôi rất lạc quan tương lai quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ rất tươi sáng. Sự thịnh vượng và an ninh của Việt Nam cũng sẽ góp phần bảo vệ sự thịnh vượng và an ninh của Hoa Kỳ.
PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp tại Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU): Bước nhảy vọt chưa từng có

Trong 80 năm xây dựng nền kinh tế Việt Nam (từ ngày 2/9/1945 đến nay) có thể chia làm hai chặng đường.
Chặng đầu tiên là gần 40 năm (từ năm 1945-1985), đất nước chủ yếu tập trung vào cách mạng giải phóng dân tộc, thoát khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, do đó kinh tế rất khó khăn.
Nhưng kể từ sau Đổi mới (năm 1986), nghĩa là một nửa chặng đường còn lại, chúng ta có bước chuyển rất quan trọng, "cởi trói", giải phóng nguồn lực, con người và tư duy.
Sau 40 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước nhảy vọt chưa từng có. Từ một nước thiếu ăn, thiếu đói, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Từ một nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 200 USD, giờ đây chúng ta nỗ lực vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình cao, với mục tiêu khoảng 12.000 USD vào năm 2045.
Quan hệ sản xuất thể hiện qua thể chế chính trị, hành chính, pháp lý, ngày càng được hoàn thiện theo đúng bản chất kinh tế thị trường.
Chúng ta đã và đang hội nhập sâu rộng. Chính sách đối ngoại chủ động, tích cực và chủ trương "Việt Nam sẵn sàng làm bạn và đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế" khiến cả thế giới tin tưởng.
Nếu như cách đây khoảng 20 năm, chúng ta chỉ có 3 tỷ phú, hiện nay trên thị trường chứng khoán đã có 200 tỷ phú.
Sức chống chịu của nền kinh tế ngày càng cao, vượt qua các cuộc khủng hoảng lớn như khủng hoảng tài chính châu Á (1997), khủng hoảng toàn cầu (2008) và cả đại dịch Covid-19.
Một trong những động lực chính đưa Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu là nỗ lực cải cách, tận dụng lợi thế của người đi sau và khai thác lợi thế sẵn có của đất nước như nguồn nhân lực, đất đai và vị trí địa lý.
Việt Nam cũng rất nhạy bén trong nắm bắt các cơ hội đầu tư, thương mại và tận dụng nguồn hỗ trợ như ODA. Cùng với những đổi mới trong đầu tư công và chính sách tiêu dùng, tất cả đã hợp lực thành động lực cực mạnh.
Hiện nay, chúng ta dần tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra một vị thế mà nếu thiếu Việt Nam, chắc chắn chuỗi cung ứng sẽ có gián đoạn, đặc biệt trong các ngành hàng như linh kiện điện tử.
Không ai đánh thuế giấc mơ, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng có những tập đoàn lọt vào top đầu thế giới, dẫn đầu chuỗi cung ứng giá trị cao.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng: Kỳ vọng lớn vào "bộ tứ trụ cột"

Nói đến bước ngoặt lớn về tư tưởng kinh tế trong lịch sử hiện đại Việt Nam phải nói đến Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên được ban hành cuối năm 1987.
Trước khi Luật ra đời, không mấy ai biết về hội nhập. Nhưng chỉ trong hơn 2 năm, dù vẫn trong vòng vây cấm vận, đã có hàng trăm giấy phép đầu tư được cấp, chúng ta đã đón những nhà đầu tư đầu tiên vào Việt Nam, với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD.
Từ năm 1993 trở đi, hoạt động đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Khó có thể quên cột mốc ba năm (1994-1996) - thời điểm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dồi dào và bắt đầu đi vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đó chính là minh chứng cho sức sống, sức bật của nền kinh tế Việt Nam, khả năng chinh phục của người Việt Nam một khi thế giới công nhận và sẵn sàng mở cửa.
Việt Nam nhanh chóng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tuy còn ở mức thấp nhưng ít nhất chứng minh với các nước khác rằng: Người Việt Nam làm được!
Hiện tại, chúng ta cũng đang có sự thay đổi mạnh về tư duy. Đó là bốn Nghị quyết trụ cột bao gồm: Nghị quyết 66 về cải cách thể chế, Nghị quyết 68 về phát triển khu vực tư nhân, Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế và Nghị quyết 57 về đột phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đó là những định hướng đúng đắn và phù hợp với nhu cầu phát triển, cho thấy chúng ta đã nhận diện được tầm quan trọng và những điểm nghẽn trong bốn vấn đề đó để lần lượt được giải quyết đồng bộ và rất cấp tập.
Bởi đã đến lúc chúng ta phải chạy nhanh mới có thể bắt kịp với sự phát triển của thế giới và tiếp tục khẳng định mình trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Chúng ta không chỉ cần những đột phá mà phải thực sự thay đổi mạnh mẽ để đi lên.

Tăng trưởng của Việt Nam trong 10 năm gần đây. Nguồn: Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê).