Chỉ đạo điều hành

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới

07/10/2025, 09:38

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 306/NQ-CP về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Nghị quyết xác định rõ không gian phát triển quốc gia, các vùng động lực...

Mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại, bảo đảm các cân đối lớn

Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính.

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới- Ảnh 1.

Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Ảnh Việt Dũng.

Mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững. Các vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng phát huy vai trò đi đầu, dẫn dắt trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đất nước có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh nguồn nước.

Môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển toàn diện nguồn nhân lực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.

Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%, phấn đấu có từ 3-5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế

Nghị quyết đồng thời đề cập đến các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể. Theo đó, về kinh tế, thời kỳ 2021-2030, tốc độ tăng trưởng đạt trên 8,0%/năm. Trong đó, giai đoạn 2026-2030 phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt từ 10%/năm trở lên.

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới- Ảnh 2.

Phấn đấu có từ 3-5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế.

Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%; khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%; khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%.

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 7%/năm trong thời kỳ 2021-2030, trong đó, giai đoạn 2026-2030 đạt trên 8,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%.

Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Hà Nội và TP.HCM; hành lang kinh tế Bắc - Nam, hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài - TP.HCM - Biên Hòa - Vũng Tàu, với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.

Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu có từ 3-5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững, gắn với đô thị hóa.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Về môi trường, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 95%. Trong đó, tỷ lệ xử lý thông qua các mô hình kinh tế tuần hoàn đạt khoảng 50%.

Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp giảm dưới 50% so với lượng chất thải được thu gom.

Tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom, vận chuyển và xử lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 98%. Riêng chất thải y tế được xử lý đạt 100%. Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%.

Thực hiện giảm phát thải khí nhà kính trong các ngành, lĩnh vực để phấn đấu nhanh nhất đạt mục tiêu giảm phát thải ròng của quốc gia về 0 vào năm 2050.

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới- Ảnh 3.

Phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại, bảo đảm các cân đối lớn.

Về phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, bao gồm các trục giao thông đường bộ Bắc - Nam (đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số đoạn của đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường ven biển), các trục giao thông Đông - Tây quan trọng, phấn đấu có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc; Các cảng biển cửa ngõ có chức năng trung chuyển quốc tế, các cảng hàng không quốc tế lớn, các tuyến đường sắt kết nối với các cảng biển lớn, đường sắt kết nối quốc tế, đường sắt đô thị. Phấn đấu xây dựng một số đoạn đường sắt tốc độ cao trên tuyến Bắc - Nam.

Phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng thông tin và truyền thông, hạ tầng đô thị lớn, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; giảm thiểu chi phí logistics.

6 vùng kinh tế - xã hội và các vùng động lực quốc gia

Theo Nghị quyết, đất nước được phân chia thành 6 vùng kinh tế - xã hội.

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 9 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La.

Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 6 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh.

Vùng Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế.

Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 6 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng.

Vùng Đông Nam Bộ gồm 3 tỉnh, thành phố: TP.HCM, Đồng Nai, Tây Ninh.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 5 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau.

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới- Ảnh 4.

Môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nghị quyết nêu rõ lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất trên các vùng để hình thành các vùng động lực quốc gia. Theo đó, phát triển vùng động lực phía Bắc gồm TP Hà Nội và các địa bàn gắn với các tuyến Vành đai 4, Vành đai 5, các trục Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, các cao tốc CT01, CT04, CT05, CT07, CT09 qua Hải Phòng và các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Ninh. Trong đó Hà Nội là cực tăng trưởng.

Phát triển vùng động lực phía Nam gồm các địa bàn dọc theo Quốc lộ 22, Quốc lộ 13, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, cao tốc Bắc - Nam phía Tây và đường Vành đai 4 qua TP.HCM và các tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh. Trong đó TP.HCM là cực tăng trưởng.

Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung gồm khu vực ven biển các tỉnh, thành phố: Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, trong đó Đà Nẵng là cực tăng trưởng.

Hình thành, phát triển vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long gồm TP Cần Thơ và các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với hệ thống cao tốc kết nối toàn vùng và đặc khu Phú Quốc. Trong đó, Cần Thơ là cực tăng trưởng.

Hình thành vùng động lực Bắc Trung bộ (Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh); từng bước hình vùng động lực Duyên hải Nam Trung bộ - Tây Nguyên (Khánh Hòa, Lâm Đồng và vùng phụ cận).

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới- Ảnh 5.

Tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Hà Nội và TP.HCM. Ảnh: Việt Dũng.

Nghị quyết đồng thời nêu rõ đến năm 2030, ưu tiên phát triển hành lang kinh tế Bắc - Nam dựa trên trục giao thông Bắc - Nam phía Đông, kết nối các vùng động lực, đô thị và trung tâm kinh tế lớn.

Hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, trục kết nối chủ đạo vùng động lực phía Bắc, gắn với hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Hành lang kinh tế Mộc Bài - TP.HCM - Biên Hòa - Vũng Tàu, gắn với hành lang kinh tế xuyên Á, là cửa ngõ ra biển của khu vực Đông Nam Bộ.

Trong dài hạn, từng bước hình thành hành lang kinh tế theo đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc - Nam phía Tây, các hành lang kinh tế Đông – Tây (Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội; Cầu Treo - Vũng Áng; Lao Bảo - Đông Hà - Đà Nẵng; Bờ Y - Pleiku - Quy Nhơn; Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng…).

Nghị quyết đồng thời định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; khai thác, sử dụng vùng trời; phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng (công nghiệp, dịch vụ, nông - lâm - thủy sản); phát triển hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia và định hướng sử dụng đất quốc gia, bảo đảm phát triển hài hòa, bền vững trong thời kỳ quy hoạch.

Năm nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch

Nghị quyết nêu rõ 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch. Thứ nhất, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, đô thị, nông thôn, năng lượng, hạ tầng số, văn hóa - xã hội, thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ hai, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, còn dư địa lớn, phù hợp xu thế chung của thế giới và gắn với không gian phát triển mới.

Thứ ba, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt phát triển. Lựa chọn địa bàn, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với cơ chế, chính sách vượt trội, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.

Thứ tư, hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng; đồng thời kết nối với các hành lang kinh tế của khu vực và thế giới.

Thứ năm, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả liên kết vùng, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới sau sáp nhập, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.