Phát triển chuỗi giá trị xanh là xu hướng tất yếu
Sáng nay (19/11), Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức Hội thảo Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Đào Xuân Hưng, Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường cho biết, phát triển chuỗi giá trị xanh là xu hướng tất yếu và là nhiệm vụ chiến lược trong tiến trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững.

TS. Đào Xuân Hưng, Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường.
Theo ông Hưng, chuỗi giá trị xanh không chỉ giúp giảm phát thải và bảo vệ môi trường, mà còn tạo nền tảng để nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản, xây dựng thương hiệu quốc gia và tăng cường sức cạnh tranh trong bối cảnh thị trường quốc tế ngày càng yêu cầu tiêu chuẩn cao.
Liên kết vùng sẽ hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, đồng bộ, thúc đẩy chế biến sâu, tối ưu hóa logistics và giảm thất thoát sau thu hoạch và là nền tảng quan trọng để phát triển chuỗi giá trị xanh sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp giảm phát thải; nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm thông qua chuẩn hóa quy trình và truy xuất nguồn gốc; mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường cao cấp ưu tiên sản phẩm bền vững; phát triển kinh tế nông thôn ổn định, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời tiến gần hơn mục tiêu phát thải ròng bằng "0" theo định hướng phát triển bền vững.

Hội thảo Liên kết vùng - Thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam.
Theo ông Hưng, để đạt được những mục tiêu này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học, hợp tác xã và người nông dân; đồng thời phải đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, hoàn thiện cơ chế liên kết vùng và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Do đó, hội thảo lần này là dịp để Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục phát huy vai trò cầu nối thông tin, lan tỏa giá trị xanh và đồng hành cùng ngành nông nghiệp trong quá trình chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững.
Ý kiến tập trung làm rõ sự cần thiết của việc hoàn thiện cơ chế liên kết vùng, tạo sự phối hợp đồng bộ giữa các địa phương trong quy hoạch, xây dựng vùng nguyên liệu, chia sẻ dữ liệu và tổ chức sản xuất - tiêu thụ theo chuỗi. Bên cạnh đó, các tham luận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn hóa tiêu chuẩn chất lượng và đẩy mạnh truy xuất nguồn gốc, coi đây là chìa khóa giúp nông sản Việt Nam đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế, đồng thời nâng cao tính minh bạch và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp
Chia sẻ tại hội thảo, Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường, cho rằng trước bối cảnh mới, cần tầng lớp nông dân mới. Họ có thể hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo nhu cầu thị trường, sản xuất chuyên nghiệp.

Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường.
Thực tế cho thấy, giá trị xuất khẩu nông sản khoảng 25 năm qua tăng lên rõ rệt. Thị trường xuất khẩu cũng đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn với sản phẩm nông sản như: Kiểm dịch an toàn thực phẩm, ER GAP, GFSI, Viet GAP, Kiểm nghiệm MRL, IUU, số hóa nguồn gốc.
Nhưng trên thực tế hiện nay, nông dân Việt Nam có quy mô nhỏ lẻ, xu hướng nông dân già hóa. Trình độ học vấn nông dân có chứng chỉ ít, chỉ khoảng 3-4% nông dân có chứng chỉ. Qua đó cho thấy trình độ, ứng dụng khoa học công nghệ ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, khả năng ứng phó biến đổi khí hậu kém. Trong quá trình xây dựng liên kết chuỗi giá trị, liên kết hợp tác xã tăng nhưng hợp đồng nông sản phát triển không nhiều, lỏng lẻo.
Dẫn một số mô hình nông nghiệp tiên tiến trên thế giới, ông Thắng kiến nghị xây dựng, đào tạo đội ngũ nông dân chuyên nghiệp. Nông dân chuyên nghiệp là thế hệ đội ngũ lao động có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp; nông dân phải được đào tạo, cấp chứng chỉ, chuyên môn, các chương trình riêng của hiệp hội; nông dân tuân thủ quy định pháp luật, tính chuyên nghiệp trong chấp hành các cam kết; nông dân tổ chức lại tham gia vào các hội, hiệp hội; sản xuất hàng hóa có gắn kết, liên kết, họ hỗ trợ lẫn nhau trong tiếp cận thị trường.
Cũng theo ông Thắng, khi xây dựng nông dân chuyên nghiệp cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển kèm theo, như: Chính sách hỗ trợ vay vốn, đào tạo, hỗ trợ đầu tư, nghiên cứu chuyển giao khoa học công nghệ vào thực tiễn.
Phát triển chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp, công nghệ xử lý sản phẩm sau thu hoạch cũng đóng vai trò quan trọng. PGS. TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch, cho biết hiện nay có khá nhiều công nghệ xử lý và được chia làm nhiều nhóm. Có những công nghệ tiên tiến như lạnh đông siêu tốc bằng chất lỏng, tương đương công nghệ Nhật Bản, đã đưa vào ứng dụng thủy sản, tiến tới cấp đông súc sản, rút ngắn thời gian cấp đông.

PGS. TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch.
Song, dư địa phát triển công nghệ xử lý sản phẩm sau thu hoạch còn khá lớn. Do đó, để thúc đẩy công nghệ xử lý sản phẩm nông sản sau thu hoạch, ông Tuấn cũng có đề xuất: quy hoạch vùng sản xuất theo lợi thế vùng, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với đặc sản địa phương, xác định rõ tiêu chuẩn chất lượng, sản lượng, mùa vụ; liên kết vùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ theo chuỗi giá trị, hạn chế trùng lặp sản phẩm giữa các tỉnh gây cạnh tranh nội vùng; đồng bộ cơ sở hạ tầng gắn với chuỗi logistics xanh, packinghou...
Tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy hợp tác xã và doanh nghiệp đầu tàu, hình thành các HTX kiểu mới làm trung gian giữa nông dân và doanh nghiệp đảm nhiệm dịch vụ đầu vào, kiểm soát chất lượng, thu gom; khuyến khích doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi giá trị (chế biến, xuất khẩu) liên kết bao tiêu, chuyển giao kỹ thuật, áp dụng hợp đồng thông minh.
Ông Tuấn cũng kiến nghị, áp dụng tiêu chuẩn xanh và công nghệ cao, chuyển mạnh sang các chuẩn nông nghiệp bền vững: VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, trong nông nghiệp; tăng tỷ lệ cơ giới hóa, số hóa: hệ thống tưới tự động, cảm biến môi trường, nhật ký điện tử, truy xuất nguồn gốc QR/Blockchain; giảm phát thải: phân bón sinh học, chế phẩm vi sinh, nông nghiệp tuần hoàn (tái sử dụng phụ phẩm); xây dựng phòng kiểm nghiệm chuẩn quốc tế, trung tâm chứng nhận xuất khẩu tại vùng sản xuất; xây dựng thương hiệu vùng và mở rộng thị trường; chuẩn hóa chất lượng theo từng vùng chỉ dẫn địa lý; tạo bộ nhận diện thương hiệu vùng; phát triển các sản phẩm tinh chế, chế biến sâu (sấy lạnh, đông khô, chiết xuất tinh dầu, sản phẩm giá trị cao ...); hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, sàn thương mại điện tử xuyên biên giới; cập nhật thông tin thị trường lớn (EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc) về kiểm dịch, mã số vùng trồng, dư lượng thuốc BVTV, bao bì xanh...
Tăng cường vai trò Nhà nước trong điều phối và dự báo, Bộ NN&MT và các địa phương cần có cơ chế điều phối vùng sản xuất – tiêu thụ: Quy hoạch mùa vụ, cảnh báo cung cầu, điều tiết xuất khẩu; xây dựng hệ thống dữ liệu nông nghiệp quốc gia kết nối từ nông dân, hợp tác xã đến doanh nghiệp và thị trường; hoàn thiện chính sách tín dụng xanh, hỗ trợ đổi mới công nghệ, bảo hiểm nông nghiệp, ông Tuấn kiến nghị.
"Rối" trong tín dụng nông nghiệp xanh
Nguồn vốn là động lực quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp. Song, hoạt động tín dụng trong lĩnh vực này đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Ông Vương Văn Quý, Phó trưởng Ban Chính sách tín dụng Agribank, cho biết khung pháp lý về tín dụng xanh hiện vẫn chưa đồng bộ và thống nhất, dẫn đến gặp một số khó khăn trong quá trình triển khai. Việt Nam chưa có hệ thống ngành kinh tế xanh quốc gia và danh mục dự án xanh được chuẩn hóa và công khai trên cổng thông tin điện tử. Do đó các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung và Agribank nói riêng gặp khó khăn trong công tác thu thập dữ liệu, thẩm định hồ sơ, kiểm tra, giám sát, đánh giá dự án theo chuẩn ESG.

Ông Vương Văn Quý, Phó trưởng Ban Chính sách tín dụng Agribank.
Nhìn từ góc độ khách hàng là doanh nghiệp, nông dân và hợp tác xã: việc tiếp cận tín dụng xanh gặp nhiều rào cản do năng lực đáp ứng yêu cầu "xanh" còn hạn chế. Phần lớn khách hàng chưa có đầy đủ hồ sơ môi trường, chưa sở hữu các chứng nhận hữu cơ hoặc chứng nhận tuần hoàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Năng lực lập báo cáo ESG còn yếu, quy mô sản xuất thường nhỏ lẻ và thiếu tài sản bảo đảm, khiến họ khó đáp ứng các tiêu chí tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, các dự án xanh thường yêu cầu vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi dài, trong khi chi phí chuyển đổi xanh và chi phí chứng nhận quốc tế tương đối cao, làm giảm khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và hợp tác xã.
Thời gian hoàn vốn cho các dự án xanh thường dài, rủi ro cao trong khi lãi suất áp dụng cho các chương trình hỗ trợ tín dụng xanh cho khách hàng thường thấp hơn mức lãi suất cho vay thông thường. Điều này khiến Ngân hàng gặp khó khăn trong công tác cân đối nguồn vốn giữa cho vay và huy động...
Do đó, để "gỡ vướng" tín dụng nông nghiệp xanh, ông Quý cho rằng, nhà nước cần sớm hoàn thiện một hệ thống quy định thống nhất về tín dụng xanh. Trong đó, trọng tâm ban hành hệ thống ngành kinh tế xanh quốc gia, có cơ chế/công cụ hỗ trợ cho các TCTD tiếp cận, thu thập các thông tin về việc tuân thủ bảo vệ môi trường của khách hàng.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu cơ chế hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh rủi ro, cũng như tiêu chuẩn hóa bộ tiêu chí "xác nhận xanh" trong các hồ sơ pháp lý như đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường... nhằm giảm bớt sự chồng chéo giữa các cơ quan cấp phép và cơ quan tài chính.
Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân, những chủ thể trực tiếp triển khai mô hình xanh vẫn còn nhiều hạn chế trong đáp ứng tiêu chí về môi trường, xã hội, tuần hoàn. Vì vậy, cần đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực lập hồ sơ môi trường và báo cáo ESG, hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện các tiêu chuẩn hữu cơ, tiêu chuẩn tuần hoàn và các chứng nhận quốc tế.
Nhà nước và các tổ chức quốc tế cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ chi phí chuyển đổi xanh, chi phí chứng nhận, cũng như tư vấn kỹ thuật để doanh nghiệp có thể tiếp cận tín dụng xanh thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, cần khuyến khích doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết với các đơn vị đầu chuỗi, nhằm nâng cao năng lực quản trị, giảm rủi ro kinh doanh và tăng tính bền vững trong sản xuất...
Phát biểu tại buổi hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, ngành nông nghiệp đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, là nền tảng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường, đặc biệt là phát triển nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, theo hướng bền vững, là mục tiêu chiến lược của ngành.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị xanh, theo đó thúc đẩy các mô hình sản xuất an toàn, thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học, đồng thời tăng cường liên kết vùng để thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo mô hình kinh tế tuần hoàn, tạo ra sản phẩm có giá trị cao, nâng cao thương hiệu và vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước.
Hội thảo hôm nay là diễn đàn để trao đổi, chia sẻ thông tin, mà còn là lời kêu gọi hành động thiết thực, hướng tới một hệ sinh thái nông nghiệp xanh, phát triển dựa trên nguyên tắc công bằng, hài hòa, bền vững.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định rõ rằng, phát triển các chuỗi giá trị xanh là bước đi tất yếu, nhằm xây dựng một nền nông nghiệp ít phát thải, ít gây tổn hại đến môi trường, đồng thời tối ưu hóa lợi ích kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận