Công trình vĩ đại
Năm 1817, Thoại Ngọc Hầu được vua Gia Long cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Từ đó, ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.

Kênh đào Vĩnh Tế - công trình vĩ đại bằng sức của 80.000 dân binh, khởi đầu nền văn minh sông nước thời khẩn vùng đất Nam Bộ cách đây 200 năm (Ảnh: Cổng TTĐT An Giang).
Thoại Ngọc Hầu liền dâng tấu sớ về việc đào kênh nối Châu Đốc - Hà Tiên và được Triều đình chấp thuận. Vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp năm 1819, được ông chỉ huy trực tiếp.
Theo các sử liệu, việc đào kênh không xuyên suốt mà có những thời kỳ gián đoạn. Tổng cộng thời gian đào kênh kéo dài 5 năm, được chia làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Ngay trong đợt đầu, triều Nguyễn đã huy động tổng cộng 10.500 lượt người thay nhau đào kênh từ ngày 15 tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) đến ngày 15 tháng 3 năm Canh Thìn (1820), phải tạm dừng vì khi đó, ở Nam Kỳ bị dịch bệnh nặng nề.
Giai đoạn 2: Việc thi công tiếp tục kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4 năm Quý Mùi (1823) đã đào được 10.500 trượng (trượng = 3,33m), chỉ còn hơn 1.700 trượng. Tuy vậy, khi đó trời đã sang hè, vua Minh Mệnh quyết định cho dân phu đào kênh được tạm nghỉ, dự định đến tháng 2 năm Giáp Thân (1824) sẽ đào tiếp đoạn còn lại.
Giai đoạn 3: Đến tháng 5 năm Giáp Thân, kênh Vĩnh Tế được đào xong, với chiều dài 205 dặm rưỡi (khoảng 91km), rộng trung bình 30m, sâu từ 2,5 - 3m.

Chân dung danh thần Thoại Ngọc Hầu được tạc tượng thờ tại Lăng mộ ông dưới chân Núi Sam, nay là phường Vĩnh Tế, tỉnh An Giang.
Bà Châu Thị Vĩnh Tế, chánh thất của Thoại Ngọc Hầu đã tích cực giúp phu quân trong việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên. Bà đứng ra tập hợp thân nhân của những người đang trực tiếp đào kênh, cùng nhau chăm lo việc ăn uống, thuốc men, chữa trị những lúc bệnh tật, bị tai nạn khi đào kênh hay bị thú dữ tấn công. Dưới sự chăm sóc chu đáo của bà đã góp phần thúc đẩy việc đào kênh được diễn ra nhanh chóng hơn. Những người trực tiếp đào kênh luôn cảm thấy an tâm.
Khi tin vui về đến Triều đình Huế, Vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Từ đó, Vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là "Vĩnh Tế Hà" và tên núi Sam gần bờ kênh là "Vĩnh Tế Sơn", làng cạnh núi là "Vĩnh Tế Thôn".
Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ Thoại Ngọc Hầu được xây dựng dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính, là di tích lịch sử cấp quốc gia mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và kiến trúc thời Nguyễn.
Theo GS.TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ tịch Ủy ban Luật Quốc tế, Liên Hợp quốc, kênh Vĩnh Tế là công trình tưới tiêu vĩ đại nhất khu vực Đông Nam Á vào thời kỳ đó, đưa nước tới hàng ngàn mẫu ruộng đồng bằng sông Cửu Long, rửa sạch chất phèn, cải tạo đất cho mùa màng bội thu và tạo thông thương đường thủy thuận lợi.
Công trình kênh đào Vĩnh Tế vĩ đại này được khắc trên Cửu đinh (Cao đỉnh) lưu danh cùng 34 địa điểm nổi tiếng khác của đất nước ta (dưới triều Nguyễn), thuộc Danh mục Di sản tư liệu khu vực châu Á Thái Bình Dương của UNESCO.
Khởi đầu nền văn minh sông nước thời khẩn hoang
Theo Thạc sĩ Ngô Thị Ngọc Linh, nhà nghiên cứu văn hóa ở An Giang, sở dĩ việc đào kênh Vĩnh Tế được nhà Nguyễn xem là quốc sách và quyết tâm thực hiện vì nó đã mang lại giá trị vô cùng to lớn, trước hết là lợi ích về kinh tế.

Lăng mộ Thoại Ngọc Hầu - di tích lịch sử cấp quốc gia có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và kiến trúc triều Nguyễn tại An Giang.
Nếu như vùng "Châu Đốc Tân Cương" đến thời Gia Long vẫn còn thưa người và đất hoang lầy lội, thì sau khi hoàn thành kênh Vĩnh Tế giúp đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua, rửa phèn cho ruộng đông ngày một thêm màu mỡ. Sau khi đào kênh, Nguyễn Văn Thoại đã cho đắp các con đường dọc hai bên bờ kênh, từ đó làng Vĩnh Tế đã ra đời.
Trong tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia "200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lai", PGS.TS Trần Thị Mai, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia HCM, đã có những chia sẻ quý giá. Để bổ sung nguồn nhân lực, song song với việc đào kênh, triều Nguyễn triển khai chiến lược thu hút dân cư đến vùng đất mới lập nghiệp.
Ngay trong năm 1823, thực hiện chỉ dụ của nhà vua, Nguyễn Văn Thoại đã lập được 5 làng: Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia và Vĩnh Điều. Mỗi làng có hơn 20 hộ và hơn 100 nhân khẩu. Đến năm 1830, toàn Châu Đốc lập được 41 xã thôn, phường, dân hơn 800 đỉnh, nhưng địa lợi chưa khai khẩn được là bao. Triều đình muốn chiêu mộ dân đến biên phòng nên hoãn thu thuế điền thổ và thuế thân nhiều năm.
Nhờ đó, đến năm 1836, số xã, thôn, phường đã tăng lên con số 91. Năm 1839, khi chia đặt lại cơ cấu hành chính, Châu Đốc đã quản 4 huyện Đông Xuyên, Tây Xuyên, Hà Âm, Hà Dương với dân số 2.520 người. Dọc dưới chân núi Sam, dân cư tập trung sinh sống ngày càng đông đúc và phát triển, đúng như những gì vua Gia Long đã nghĩ khi hoạch định kế hoạch đào kênh.
Kênh Vĩnh Tế vừa thuận tiện cho giao thông vận tải, vừa làm sạch phèn, đưa nước ngọt vào tưới cho một diện tích lớn trồng cấy ở Hà Tiên - Rạch Giá.
Không chỉ cung cấp nước ngọt cho sản xuất, sinh hoạt, nguồn nước của kênh chảy đến đâu, cá tôm từ nguồn Mekong đổ về theo đến đó, làm lợi cho sinh kế của dân. Giải quyết được vấn đề nước ngọt, sự màu mỡ của đất đai lộ ra, thu hút những người dân thiếu đất từ các nơi đổ về.
Tuyến kênh này đã trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế và xã hội, thu hút dân cư từ các nơi khác đến sinh sống và làm ăn, khởi đầu nền văn minh sông nước thời khẩn hoang. Kênh Vĩnh Tế đã tạo ra một môi trường sống thuận lợi hơn, thu hút nhiều người từ các khu vực khác đến định cư và khai phá vùng đất mới.
Sự gia tăng dân số và sự hình thành các cộng đồng mới đã góp phần làm phong phú thêm đời sống xã hội và văn hóa tại khu vực biên giới. Những người mới đến không chỉ mang theo kỹ năng và kiến thức mới mà còn góp phần vào sự đa dạng văn hóa và xã hội của vùng đất này.
Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận