Từ gian khó mà thành sinh kế
Thổ Châu có hai bãi cát lớn là bãi Ngự và bãi Dong. Theo quy luật gió mùa, từ tháng 9 năm trước đến tháng 4 năm sau (âm lịch), cư dân tập trung về bãi Ngự để tránh gió Nam. Đến tháng 5, khi gió Bắc nổi lên, họ lại dời sang bãi Dong. Việc "chuyển bãi theo mùa" trở thành một phần tất yếu trong đời sống trên đảo.

Xóm nuôi cá lồng, ở bãi Ngự giờ còn 17 hộ. Ảnh: Thanh Vũ
Ông Đặng Văn Dừng, Phó bí thư Đảng ủy đặc khu Thổ Châu cho biết, đảo chưa có điện phải sử dụng bằng máy phát, nước ngọt tiết kiệm. Song, đường ra Thổ Châu cũng là một thử thách. Từ đất liền phải qua hai chặng tàu biển, mỗi chặng hơn 100km.
"Trung bình 5 ngày mới có một chuyến tàu ra đảo, gặp thời tiết xấu có khi phải chờ lâu hơn. Người, hàng hóa và cả sinh kế đều phụ thuộc vào con nước và thời tiết", ông Dừng chia sẻ.
Tìm đến một trong 17 hộ dân đầu tiên ra đảo năm 1993, ông Huỳnh Hữu Hiệp vẫn nhớ như in những ngày đầu đặt chân lên Thổ Châu.
"Hồi đó tối đến là sợ. Điện tắt lúc 9h, gió biển ập tới, phụ nữ với trẻ con không ngủ được", ông kể. Có lúc vợ ông đòi về đất liền, ông chỉ nói một câu: "Đã ra đây rồi, chết cũng phải chôn ở đây".
Khi ấy, đảo còn hoang vu, vài nóc nhà thưa thớt giữa gió biển. Nhưng từ chỗ "ở nhờ" biển, người dân dần học cách sống cùng biển.
Giữa hai bãi cát đối diện nhau qua sườn đảo, những sinh kế đầu tiên hình thành: câu cá, vá lưới, chèo ghe chở hàng, đưa người từ tàu cá vào bờ.
Nghề chạy đò, buôn bán trên biển xuất hiện. Sau đó những lồng cá nổi ngoài khơi, mang theo hy vọng mưu sinh của cả gia đình.
Ông Nguyễn Văn Phương là một trong những người gắn bó lâu năm với nghề nuôi cá lồng. Ông theo chân những người đi trước như ông Ba Tài, người được xem là đặt nền móng cho nghề cá bè ở Thổ Châu. "Hồi đó cá nhiều, biển hiền", ông Phương nhớ lại.
Thế hệ sau tiếp tục nối nghề. Em Nguyễn Thị An lớn lên trong mùi cá mặn. Cha mẹ em, ông Nguyễn Văn Thái và bà Võ Thị Vàng, sống bằng nghề bán cá vịt biển. Đến lượt mình, An vẫn chiếc ghe nhỏ, vẫn những chuyến đi quanh đảo. Với em, biển không phải là lựa chọn, mà là số phận nối dài.


Hằng ngày, người dân xóm nuôi cá lồng bè di chuyển bằng đò dọc hoặc bè tự chế. Ảnh: Đào Văn
Phận người giữa hai bãi cát
Thổ Châu hôm nay đã đổi khác, nhưng nhịp sống của nhiều người vẫn xoay vòng theo mùa gió. Trước kia, toàn đảo có hơn 50 hộ nuôi cá lồng bè, nay chỉ còn 17 hộ bám trụ. Số còn lại đã rời đảo, bỏ lại phía sau những mùa cá từng mang lại nguồn thu khá.
Hơn 20 năm bám bè cá, ông Trần Văn Tân cho biết, cá bớp hiện giá cao đến 250.000 đồng/kg, nuôi khoảng 8 tháng đạt 5–7 kg/con là xuất bán. Nhờ nguồn cá tạp dồi dào, giá thành thấp, với 13m² lồng nuôi, nếu tỷ lệ hao hụt dưới 50% có thể lãi hơn 200 triệu đồng/năm. Nhưng niềm vui ấy luôn đi kèm nỗi lo khi có lúc cá chết tới 70% do các bệnh lở kỳ, nổ mắt, chưa rõ nguyên nhân, chưa có thuốc trị.
Ở bè cá của ông Trịnh Minh Khanh, hai bè tám lồng mỗi vụ thu khoảng 1,4 tỷ đồng, trừ chi phí lãi 500–600 triệu đồng. "Nuôi cá bớp lời cao, nhưng chỉ cần dịch bệnh ập tới là coi như trắng tay", ông Khanh nói.

Những căn nhà trên biển nối nhau phía dưới là lồng nuôi cá bớp, cá vịt biển. Ảnh: Đào Văn
Ông Nguyễn Văn Phương vẫn nhớ đợt áp thấp nhiệt đới đầu năm 2019. Khi thông tin bão có khả năng đổ vào bãi Ngự, nhiều hộ chần chừ không chịu dọn đồ lên đảo tránh trú vì cá trong lồng sắp đến kỳ thu hoạch bán Tết.
Giữa đêm, ông Phương chạy xuồng máy đến từng bè, rơm rớm nước mắt: "Mạng người mà thua con cá sao? Mất của còn làm lại được, mất mạng thì lấy gì bù". Cơn bão năm đó không gây thiệt hại về người. Cá dưới lồng theo biển đi mất.
Ở bãi Ngự, ông Lâm Thanh Sơn vẫn mưu sinh bằng nghề chạy đò. Công việc tưởng chừng đơn giản nhưng luôn tiềm ẩn rủi ro. "Biển yên thì còn có ăn, chứ gặp giông gió là chỉ mong bình an", ông nói. Thu nhập ngày càng giảm khi tàu cá thưa dần, trong khi số người chạy đò lại tăng.
Chị Trần Trang làm bè buôn bán nhu yếu phẩm. Tàu cá neo ở bãi nào, chị phải thuê ghe kéo bè về bãi đó. Mỗi năm hai lần di chuyển, tốn tiền, tốn công và đối mặt sóng gió. "Có lần chỉ một cơn gió mạnh là trôi sạch hàng xuống biển", chị kể.
Không phải hộ nào cũng đủ điều kiện cất hai căn nhà ở hai bãi. Với những gia đình nghèo, mỗi mùa gió là một lần dỡ nhà, dựng lại. Chị Phan Thị Hơn, làm nghề chạy đò, nói: "Dỡ xong chưa kịp quen chỗ ở thì lại chuẩn bị dỡ tiếp".

Em Nguyễn Thúy An, lớn lên ở xóm chạy gió. Hằng ngày, em phụ gia đình đem cá vịt biển ra chợ Thổ Châu bán. Ảnh: Đào Văn
Cứ thế, nhiều năm liền, người dân xóm nuôi cá lồng bè sống trong căn nhà tạm bợ kéo dài nhiều năm, trong những căn nhà không móng, trong nỗi lo thường trực mỗi khi gió đổi chiều.
Chiều xuống, bãi Ngự lặng sóng. Những căn nhà tạm nằm sát mép nước, chờ một mùa gió nữa lại dỡ đi, dựng lại. Trước mặt những đứa trẻ là đường chân trời mênh mông biển nước.
Ở Thổ Châu, người dân không mong ổn định như đất liền. Với họ, còn ở lại được, còn bám biển, còn sống được giữa hai bãi Dong, bãi Ngự đã là một cách thắng sóng.
Và ở tận cùng Tây Nam Tổ quốc, những phận người nhỏ bé vẫn lặng lẽ neo mình vào đảo, để Thổ Châu không trở thành một vùng biển trống.
Đặc khu Thổ Châu thuộc tỉnh An Giang có tổng diện tích tự nhiên gần 14km2, cách đặc khu Phú Quốc khoảng 110km, cách Trung tâm hành chính tỉnh khoảng 220km; có vị trí chiến lược trọng yếu, là vùng biển đảo phên dậu tiền tiêu phía cực Tây - Nam của Tổ quốc. Toàn xã hiện có 549 hộ gia đình với khoảng 1.900 người.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận