Đòn bẩy thể chế từ yêu cầu thực tiễn và hội nhập
Bộ Xây dựng đang khẩn trương xây dựng Bộ luật mới trên nền tảng kế thừa những tinh hoa của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 và Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2004, bổ sung các quy định đột phá phù hợp với xu thế phát triển bền vững.

Việc xây dựng chính sách Bộ luật Hàng hải Việt Nam (thay thế hai văn bản luật hiện hành) được Bộ Xây dựng xác định là bước đi chiến lược nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Việc xây dựng chính sách Bộ luật Hàng hải Việt Nam (thay thế hai văn bản luật hiện hành) được Bộ Xây dựng xác định không chỉ là nhiệm vụ lập pháp đơn thuần, mà là bước đi chiến lược nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia mạnh về biển, ngành hàng hải cần một hành lang pháp lý đủ rộng và thông thoáng để thu hút nguồn lực đầu tư vào kết cấu hạ tầng và logistics.
Bộ Xây dựng nhìn nhận, thực tiễn hoạt động giao thông đường thủy nội địa thời gian qua dù đã đạt được những kết quả tích cực với sản lượng vận tải liên tục tăng, nhiều hành lang quan trọng như TP.HCM - Cái Mép hay Hải Phòng - Hà Nội được khai thác hiệu quả, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Theo số liệu đánh giá, thị phần vận tải thủy hiện mới chiếm khoảng 18% tổng sản lượng hàng hóa toàn quốc. Trong khi đó, Quyết định 1829/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu nâng con số này lên 30%. Để lấp đầy khoảng trống này, cơ quan soạn thảo cho rằng cần phải tháo gỡ triệt để các rào cản về hạ tầng và cơ chế vốn đang tồn tại trong các văn bản luật cũ.
Bên cạnh đó, theo Bộ Xây dựng, áp lực từ công cuộc đổi mới, sắp xếp tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và các Kết luận của Bộ Chính trị đòi hỏi hệ thống pháp luật chuyên ngành phải được rà soát để loại bỏ sự chồng chéo.
Đặc biệt, sau hơn 08 năm thi hành Bộ luật Hàng hải 2015 và hơn 20 năm thực hiện Luật Giao thông ĐTNĐ 2004, hệ thống pháp luật hiện hành đã bộc lộ những bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung để tương thích với các công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam là thành viên.
Tư duy quản lý mới, xanh hóa hạ tầng và xã hội hóa dịch vụ công
Đi sâu vào nội dung dự thảo, Bộ Xây dựng đánh giá chính sách hoàn thiện khung pháp lý về quản lý nhà nước và kết cấu hạ tầng là yếu tố nền tảng. Điểm nhấn bao trùm là tư duy quản lý gắn liền với chuyển đổi số và tăng trưởng xanh.

Bộ Xây dựng đang tập trung cao độ lấy ý kiến hoàn thiện hồ sơ dự án Bộ luật Hàng hải Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cấp thiết về phát triển hạ tầng cảng biển, vận tải và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cơ quan soạn thảo đã chủ động đưa vào các quy định về ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu số dùng chung. Lần đầu tiên, các khái niệm như "cảng xanh", "vận tải xanh", "tàu xanh" được luật hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi các cam kết giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường theo chuẩn mực của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO).
Đối với bài toán quy hoạch, dự thảo thể hiện sự cởi mở trong tư duy quản lý. Thay vì các quy định cứng nhắc về quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển hay khu nước, theo đề xuất của Bộ Xây dựng, quy hoạch cảng biển sẽ được chuyển thành quy hoạch kết cấu hạ tầng hàng hải tổng thể, đảm bảo tính thống nhất với Luật Quy hoạch.
Đồng thời, việc bổ sung quy hoạch chi tiết kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa sẽ tạo sự đồng bộ trong quản lý luồng tuyến, phao tiêu và báo hiệu, giúp khơi thông dòng vốn đầu tư.
Một cải cách mang tính đột phá khác nằm ở chính sách quản lý phương tiện. Dự thảo hướng tới việc thống nhất quy định quản lý đối với tàu biển, tàu sông, tàu ven biển và các phương tiện nổi khác. Đặc biệt, Bộ Xây dựng nhấn mạnh việc tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước và dịch vụ công trong hoạt động đăng kiểm.
Chủ trương từng bước xã hội hóa hoạt động đăng kiểm được kỳ vọng sẽ giảm tải áp lực cho bộ máy nhà nước, đồng thời huy động nguồn lực xã hội để nâng cao chất lượng dịch vụ, đơn giản hóa các thủ tục về đăng ký, chuyển quyền sở hữu và thế chấp tàu.
Chuẩn hóa nhân lực và khơi thông dòng chảy vận tải
Yếu tố con người và an toàn hàng hải được đặt vào vị trí trung tâm trong các nhóm chính sách còn lại. Theo quan điểm của Bộ Xây dựng, để hội nhập sâu rộng, việc chuẩn hóa đội ngũ lao động chuyên ngành là yêu cầu bắt buộc.
Dự thảo đã hoàn thiện khung pháp lý đối với thuyền viên tàu biển để tương thích hoàn toàn với các Công ước quốc tế (STCW, MLC), đảm bảo chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên Việt Nam có giá trị toàn cầu. Đối với thuyền viên tàu sông và các lực lượng đặc thù như hoa tiêu, tìm kiếm cứu nạn, dự thảo cũng bổ sung các chế độ đãi ngộ, đào tạo và thời giờ nghỉ ngơi hợp lý.
Về mặt vận tải, dự thảo tập trung tháo gỡ các "nút thắt" kinh doanh. Quyền vận tải nội địa và quốc tế được định nghĩa lại rõ ràng hơn, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng. Đáng chú ý, đề xuất bãi bỏ điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển phải có người chuyên trách pháp chế hay khai thác cho thấy nỗ lực cắt giảm giấy phép con, trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, để đảm bảo sự phát triển bền vững, dự thảo thiết lập một khung pháp lý thống nhất về an toàn, an ninh và tìm kiếm cứu nạn.
Bộ Xây dựng khẳng định, việc quy định chung cho cả hàng hải và đường thủy trong công tác ứng phó sự cố khẩn cấp sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, khắc phục tình trạng phân tán lực lượng, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và phương tiện theo đúng thông lệ quốc tế. Đây sẽ là nền tảng pháp lý vững chắc để ngành hàng hải Việt Nam bứt phá trong giai đoạn mới.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận