Cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác ứng phó thiên tai và cứu hộ
Tình hình khí tượng thủy văn ngày càng diễn biến phức tạp do tác động của biến đổi khí hậu đặt ra yêu cầu rất lớn trong công tác phòng, chống thiên tai và cứu nạn, cứu hộ. Việc ban hành Chương VIIa trong Luật Giao thông đường thủy nội địa đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng để các cấp, ngành chủ động triển khai nhiều hoạt động cụ thể.

Chương VIIa về tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.
Ngay từ đầu năm, các cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa phương đã xây dựng phương án ứng phó thiên tai theo cấp độ rủi ro, thường xuyên rà soát các điểm đen, các cầu yếu, cầu có tĩnh không không bảo đảm kỹ thuật nhằm đề xuất biện pháp điều tiết, khống chế, bố trí kinh phí bảo đảm an toàn giao thông.
Các đơn vị cũng tổ chức diễn tập tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, ban hành công điện, văn bản chỉ đạo ứng phó khi có bão, lũ, thực hiện phương châm "4 tại chỗ" lực lượng, phương tiện, hậu cần và chỉ huy tại chỗ.
Với phương châm ưu tiên cứu người trước, tài sản sau, hệ thống các cơ quan, đơn vị chuyên ngành đường thủy nội địa đã phối hợp chặt chẽ, chủ động ứng cứu nhanh, hiệu quả, góp phần giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, nâng cao tính an toàn và bền vững cho hoạt động vận tải thủy.
Phối hợp đồng bộ, nâng cao hiệu quả cứu nạn, cứu hộ
Theo Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, hoạt động cứu hộ đường thủy nội địa hiện được quy định tại Mục 2, Chương VIIa của Luật. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về tổ chức và triển khai công tác này.
Công tác cứu hộ trên đường thủy chủ yếu được hiểu là hoạt động cứu phương tiện, tàu biển, tàu cá hoặc tài sản trên phương tiện thoát khỏi nguy hiểm, bao gồm cả việc kéo, đẩy, hỗ trợ các tàu gặp nạn.
Hiện nay, chưa có đơn vị chuyên kinh doanh dịch vụ cứu hộ đường thủy nội địa, do chi phí đầu tư phương tiện, trang thiết bị lớn trong khi tần suất sự cố không thường xuyên, khiến hoạt động này chưa hiệu quả về kinh tế.

Công tác cứu hộ trên đường thủy chủ yếu được hiểu là hoạt động cứu phương tiện, tàu biển, tàu cá hoặc tài sản trên phương tiện thoát khỏi nguy hiểm.
Hoạt động cứu hộ hiện chủ yếu dựa trên thỏa thuận giữa chủ phương tiện gặp nạn với các đơn vị khác hoặc với lực lượng quản lý, bảo trì đường thủy trong khu vực.
Để khắc phục tình trạng này, đại diện Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam cho biết, đơn vị đang nghiên cứu, đề xuất chính sách phát triển các dịch vụ hỗ trợ vận tải như hoa tiêu, lai dắt, cứu hộ... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác cứu hộ giao thông đường thủy nội địa trong thời gian tới.
Hướng tới hệ thống cứu nạn, cứu hộ chuyên nghiệp và bền vững
Theo ông Phạm Quốc Việt, Founder Đội hỗ trợ sơ cứu FAS Angel, việc bổ sung Chương VIIa trong Luật là rất cần thiết bởi công tác cứu nạn, cứu hộ hiệu quả không chỉ dựa vào lực lượng chuyên nghiệp mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tự ứng phó của người dân tại chỗ.
Thực tế cho thấy người dân ở nhiều khu vực chịu ảnh hưởng thiên tai vẫn thiếu kỹ năng sinh tồn cơ bản, không chuẩn bị "túi cứu sinh", không biết sử dụng vật nổi hay sơ cứu đúng cách, khiến thiệt hại dễ gia tăng trong thời gian chờ lực lượng cứu hộ tiếp cận.
Ông Việt cho rằng, cần có cơ chế huấn luyện định kỳ, bắt buộc về kỹ năng sơ cứu, kỹ năng thoát hiểm trong môi trường ngập lũ. Đồng thời, chuẩn hóa trang bị và tăng cường hướng dẫn từ lực lượng chức năng để người dân biết cách duy trì sự sống, phát tín hiệu cầu cứu và phối hợp đúng khi có sự cố.
Bên cạnh đó, lực lượng thiện nguyện vốn là nguồn lực quan trọng cần được đào tạo tối thiểu về cứu hộ nước, sử dụng phương tiện an toàn và tuân thủ chỉ huy thống nhất để tránh rủi ro cho chính họ.
"Khi triển khai đồng bộ các giải pháp đào tạo, chuẩn hóa trang bị, tăng cường phối hợp và nâng cao năng lực tại chỗ, hệ thống cứu nạn, cứu hộ mới có thể vận hành hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại và hỗ trợ tích cực cho mục tiêu bảo đảm an toàn giao thông thủy trong bối cảnh thiên tai ngày càng phức tạp", ông Việt cho biết thêm.

Khi được triển khai đồng bộ, Luật sẽ giúp hình thành hệ thống cứu nạn, cứu hộ chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần bảo đảm an toàn cho người dân.
Để Luật và các quy định tại Chương VIIa sớm phát huy hiệu quả, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam đã và đang triển khai nhiều giải pháp cụ thể.
Cục đã tham mưu Bộ Xây dựng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn; tổ chức hội nghị tuyên truyền, tập huấn, diễn tập về an toàn giao thông, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; rà soát các điểm đen và xây dựng công trình khẩn cấp phòng chống thiên tai tại các khu vực có nguy cơ cao.
Khi có bão, lũ, Cục kịp thời ban hành công điện chỉ đạo ứng phó, phối hợp với các lực lượng chức năng và chính quyền địa phương triển khai cứu hộ, khắc phục hậu quả, đồng thời tổng hợp thiệt hại, đề xuất kinh phí khắc phục gửi Bộ Xây dựng.
Việc bổ sung Chương VIIa trong Luật Giao thông đường thủy nội địa không chỉ đáp ứng yêu cầu cấp bách về an toàn giao thông mà còn góp phần hoàn thiện khung thể chế, nâng cao năng lực phối hợp giữa các lực lượng.
Khi được triển khai đồng bộ, Luật sẽ giúp hình thành hệ thống cứu nạn, cứu hộ chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần bảo đảm an toàn cho người dân và phát triển giao thông thủy bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.
Mục 2. CỨU HỘ GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA Điều 98e. Cứu hộ giao thông đường thủy nội địa 1. Cứu hộ giao thông đường thủy nội địa là hoạt động cứu phương tiện, tàu biển, tàu cá hoặc tài sản trên phương tiện, tàu biển, tàu cá thoát khỏi nguy hiểm hoặc hoạt động hỗ trợ gồm cả việc kéo, đẩy phương tiện, tàu biển, tàu cá đang bị nguy hiểm trên đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa. 2. Cứu hộ giao thông đường thủy nội địa được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa tổ chức, cá nhân cứu hộ (sau đây gọi là bên cứu hộ) và chủ phương tiện, tàu biển, tàu cá được cứu hộ (sau đây gọi là bên được cứu hộ). 3. Việc giải quyết tranh chấp về thanh toán tiền công cứu hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự. Điều 98g. Nghĩa vụ của bên cứu hộ, bên được cứu hộ 1. Bên cứu hộ có nghĩa vụ sau: a) Thực hiện theo thỏa thuận cứu hộ; b) Tiến hành việc cứu hộ một cách tích cực; c) Áp dụng biện pháp thích hợp để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về phương tiện, tài sản và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường; d) Yêu cầu sự hỗ trợ của tổ chức, cá nhân cứu hộ khác trong trường hợp cần thiết; đ) Chấp nhận hành động cứu hộ của tổ chức, cá nhân cứu hộ khác khi có yêu cầu hợp lý của bên được cứu hộ. 2. Bên được cứu hộ có nghĩa vụ sau: a) Thực hiện theo thỏa thuận cứu hộ; b) Hợp tác với bên cứu hộ trong suốt quá trình thực hiện cứu hộ; c) Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường trong quá trình được cứu hộ. |
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận