Cơ chế đặc thù: Giải pháp kịp thời cho các dự án trọng điểm
Theo quy định của Luật Khoáng sản 2010, việc cấp phép khai thác khoáng sản phải trải qua nhiều bước như: điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; lập đề án thăm dò; cấp giấy phép thăm dò; thực hiện công tác thăm dò; phê duyệt trữ lượng; lập dự án đầu tư hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật khai thác khoáng sản... Quá trình này thường mất từ 8 đến 12 tháng, không phù hợp với yêu cầu tiến độ của các dự án hạ tầng cấp bách như đường cao tốc.

Cơ chế đặc thù về mỏ vật liệu đã tạo nhiều thuận lợi cho nhà thầu tăng tốc các dự án đường bộ cao tốc trong thời gian qua (Ảnh minh hoạ).
Nhận thấy những bất cập trên, khi triển khai dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 60 và Nghị quyết 133, cho phép giao mỏ vật liệu cho nhà thầu trực tiếp khai thác mà không phải đấu giá quyền khai thác.
Tuy nhiên, các thủ tục theo Luật Khoáng sản 2010 vẫn phải thực hiện, nên chưa giải quyết triệt để vấn đề.
Rút kinh nghiệm, trong giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Xây dựng đã phối hợp với các bộ, ngành đề xuất ban hành cơ chế đặc thù trong khai thác khoáng sản, cho phép nhà thầu được khai thác vật liệu xây dựng thông thường mà không cần thực hiện thủ tục cấp phép. Đồng thời, các mỏ cát khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và các mỏ đá đã được cấp phép, đang hoạt động, còn thời hạn khai thác được nâng công suất mà không phải lập dự án đầu tư điều chỉnh, đánh giá tác động môi trường hoặc giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường.
Chính sách này được Quốc hội mở rộng phạm vi áp dụng thông qua Nghị quyết số 106/2023/QH15 ngày 28/11/2023, cho phép áp dụng cơ chế đặc thù đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp và công trình thuộc chương trình mục tiêu quốc gia.
Bốn lợi ích nổi bật từ cơ chế đặc thù
Bộ Xây dựng đánh giá, cơ chế đặc thù mang lại bốn lợi ích chính:
1. Rút ngắn thời gian cấp mỏ: Thay vì phải thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp phép theo Luật Khoáng sản, nhà thầu chỉ cần thực hiện thủ tục xác nhận khu vực, công suất, khối lượng, phương pháp, thiết bị, kế hoạch và bảo vệ môi trường, giúp rút ngắn thời gian cấp mỏ, đẩy nhanh tiến độ dự án.
2. Chủ động nguồn cung vật liệu: Nhà thầu được trực tiếp khai thác vật liệu, không phụ thuộc vào các mỏ thương mại, tránh tình trạng khan hiếm nguồn vật liệu, đầu cơ, nâng giá, ép giá.
3. Giảm chi phí trung gian: Việc nhà thầu tự khai thác vật liệu giúp giảm chi phí trung gian, tiết kiệm chi phí cho dự án.
4. Tăng nguồn cung vật liệu: Việc nâng công suất các mỏ thương mại góp phần tăng nguồn cung vật liệu, đảm bảo tiến độ thi công.
Còn nhiều vướng mắc

Thực tế triển khai, nhiều dự án vẫn chưa bảo đảm được nguồn vật liệu thi công do còn tồn tại một số bất cập (Ảnh minh hoạ).
Mặc dù cơ chế đặc thù mang lại nhiều lợi ích, nhưng trong quá trình triển khai vẫn gặp một số khó khăn, vướng mắc.
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là thủ tục vẫn kéo dài do địa phương lúng túng. Dù không cần cấp phép khai thác, nhiều địa phương vẫn áp dụng các thủ tục theo Luật Khoáng sản 2010, đặc biệt là khâu khảo sát, thăm dò, đánh giá trữ lượng và tác động môi trường, nhất là với các mỏ cát khu vực ĐBSCL.
Kế đến là khó khăn trong tiếp cận đất. Theo Luật Đất đai 2013, các mỏ vật liệu không thuộc diện nhà nước thu hồi đất, nhà thầu phải tự thỏa thuận thuê/mua đất với người dân. Tuy nhiên, giá người dân yêu cầu thường cao hơn nhiều lần so với giá đền bù theo quy định, khiến việc đàm phán kéo dài hoặc không đạt được thỏa thuận, làm chậm tiến độ.
Một vấn đề bất cập khác là quy định cấp mỏ theo dự án gây lãng phí. Trên thực tế, nhiều mỏ sau khi dự án kết thúc vẫn còn trữ lượng nhưng không thể tiếp tục sử dụng cho dự án khác, do phải đóng cửa mỏ và xin cấp lại. Điều này gây lãng phí nguồn tài nguyên và thời gian.
Cùng đó, năng lực đánh giá tại một số địa phương còn hạn chế. Việc khảo sát không đạt yêu cầu khiến phải thay thế mỏ, ảnh hưởng lớn đến tiến độ.
Ngoài ra, việc một số địa phương quy định công suất khai thác theo ngày hoặc giới hạn thời gian khai thác theo năm (trong khi nghị quyết cho phép đến khi kết thúc dự án), buộc phải điều chỉnh nhiều lần.
Theo Nghị định 23/2020, thời gian khai thác từ 7–17 giờ, không cho phép khai thác ban đêm. Việc này làm giảm hiệu quả khai thác thực tế.
Cuối cùng là việc lúng túng trong xác định tiền thuê đất mặt nước, đặc biệt với các mỏ cát sông.
Kiến nghị mở rộng danh mục dự án, nới thời gian áp dụng

Tiếp tục rà soát, xem xét mở rộng danh mục dự án được áp dụng cơ chế đặc thù về mỏ vật liệu là một trong những giải pháp Bộ Xây dựng kiến nghị, bảo đảm nguồn lực cho các dự án tăng tốc (Ảnh minh hoạ).
Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đã không xếp cát san lấp (sông, biển, lòng hồ) vào nhóm khoáng sản nhóm IV như đất, dù loại vật liệu này là chủ yếu tại các dự án ở miền Nam.
Luật cũng cho phép rút ngắn thủ tục và giao mỏ trực tiếp cho nhà thầu nhưng chỉ áp dụng cho các dự án quốc gia quan trọng hoặc cấp bách.
Bộ Xây dựng cho rằng cần mở rộng danh mục dự án được áp dụng cơ chế đặc thù, bao gồm cả các dự án trọng điểm khác.
Hiện nay, một số dự án như Mỹ An – Cao Lãnh, Dầu Giây – Tân Phú đang làm thủ tục cấp mỏ. Nếu không hoàn thành trước 30/6/2025 (thời điểm Nghị quyết 106/2023/QH15 hết hiệu lực), sẽ không được áp dụng cơ chế đặc thù.
Do đó, Bộ Xây dựng kiến nghị Bộ NN&PTNT xem xét trình cấp có thẩm quyền gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết 106/2023 đến hết năm 2025; Mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án đầu tư công trọng điểm.
Bộ Xây dựng cũng kiến nghị rà soát, điều chỉnh quy định hiện hành, gỡ vướng về thủ tục cấp mỏ, thời gian khai thác, công suất, cơ chế thuê đất mặt nước... để tạo thuận lợi tối đa cho việc khai thác vật liệu phục vụ các dự án hạ tầng cấp bách.
Cơ chế đặc thù trong khai thác vật liệu xây dựng đã chứng minh hiệu quả trong việc tháo gỡ nút thắt về nguồn cung vật liệu cho các dự án hạ tầng trọng điểm. Tuy nhiên, để phát huy tối đa hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai và mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phù hợp.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận